ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Vote_lcapTÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  I_voting_barTÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Empty
Bài gửiTiêu đề: TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)    TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeWed May 25, 2011 9:55 pm

TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)

(Trích lục từ Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác )
Người giảng: Lão Hoà Thượng Tịnh Không
Địa điểm: Đạo tràng Cư Sĩ Lâm, Singapore
Thời gian: ngày 11 tháng 06 năm 2004

**************
Xin mời mở kinh văn, tờ thứ 49, kinh văn hàng thứ nhất, Phẩm thứ 24 -
Ba bậc vãng sanh. Phẩm kinh này cùng phẩm 25 - Chánh nhân vãng sanh -
trong bộ kinh này là nói đến cần phải chuẩn bị những điều kiện gì để
vãng sanh. Hay nói cách khác, hai phẩm này chuyên nói về phương pháp
niệm Phật vãng sanh, nên rất là quan trọng. Nếu như chúng ta ở ngay
trong một đời này mong cầu vãng sanh, thì phải đặc biệt chú ý đến phẩm
kinh này.
Mời xem kinh văn: “Phật cáo A Nan, thập phương thế giới, chư thiên
nhân dân, kỳ hữu chí tâm, nguyện sanh bỉ quốc, phàm hữu Tam bối”. Đây là
đoạn thứ nhất, nói chung về ba bậc vãng sanh. Ba bậc chính là ba đẳng
cấp khác nhau. Phật gọi A Nan để nói cho ông nghe, phàm hễ gọi đến tên
thì kinh văn phía sau sẽ đặc biệt quan trọng. Đây là Phật nhắc nhở ngài A
Nan và chúng ta. Ngài A Nan là đại biểu cho mọi người, gọi đến A Nan
cũng chính là gọi đến chúng ta. Trong đây có phần của chúng ta hay
không? Có. Bạn thấy mười phương thế giới chư thiên nhân dân, chúng ta ở
ngay trong mười phương thế giới chư thiên nhân dân. Hiện tại thì sao?
Vấn đề chính là chúng ta có chí thành nguyện sanh hay không? Chân thật
phát tâm nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ thì phải biết cái thế gian này
rất khổ.
Có một đồng tu vừa nói với tôi, em trai của ông – người ở đối diện
với tòa nhà chúng ta - đã nhảy lầu tự sát; Ngoài ra còn có người nói với
tôi, ở nơi đây đã có hai ba lần xảy ra sự việc này rồi. Người học Phật
chúng ta biết được, người tự sát nhất định phải tìm người thế thân. Vậy
thì sự việc này sẽ liên tục không ngừng xảy ra, cho nên phải nên siêu độ
cho họ. Đạo tràng Cư Sĩ Lâm đối diện với họ, tối hôm nay chúng ta giảng
kinh, sẽ đem công đức giảng kinh này hồi hướng cho những người tự sát
đó. Tự sát rất là thống khổ, việc này ở trên kinh nói, trước khi họ chưa
tìm được người thế thân, họ tự sát như thế nào thì việc tự sát này của
họ sẽ diễn ra cứ 7 ngày một lần cho đến khi họ tìm được thế thân thì họ
mới có thể giải thoát. Họ vô cùng khổ sở. Việc này rất nhiều người
không hiểu rõ chân tướng sự thật.
Cho nên chúng ta ở thế gian, cho dù gặp phải rất nhiều chướng ngại
cũng phải bình tâm, phải tuỳ thuận. Tại sao vậy? vì trong đời này của
chúng ta, trong cuộc sống thường ngày dù bạn gặp phải hoàn cảnh gì,
không luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều là trong mạng đã có, đều
do nghiệp lực trong đời quá khứ chiêu cảm đến. Sự việc này trong kinh
Phật đã nói rất rõ ràng, tất cả chúng sanh có hai loại nghiệp lực:
- Loại nghiệp lực thứ nhất gọi là dẫn nghiệp, tức là nghiệp dẫn dắt bạn đi đến cõi nào để thọ thai.
- Loại nghiệp lực thứ hai là mãn nghiệp. Mãn nghiệp chính là
thiện và bất thiện trong đời quá khứ chúng ta đã tạo ra. Trong một đời
này của chúng ta, nghèo giàu sang hèn, tất cả những chuyện gặp phải đó
là mãn nghiệp. Đã là nghiệp trong đời quá khứ đã tạo ra thì làm sao
không nhận chịu chứ? Ngay trong khi nhận chịu, nếu thuận cảnh, thiện
duyên chúng ta không khởi tham ái; nghịch cảnh, ác duyên cũng không
sanh sân hận, thì nghiệp của chúng ta liền tiêu hết, nghiệp quá khứ đã
tạo nhất định được tiêu hết. Nếu bạn không tiêu hết nghiệp quá khứ thì
không ra khỏi ba cõi.
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng
chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút. Cho nên có
được cơ duyên này để tiêu nghiệp là việc tốt, không phải việc xấu. Càng
nhẫn những việc khó nhẫn thì nghiệp của bạn tiêu được càng nhiều, tiêu
được cành nhanh, việc này phải nên biết. Không luận chịu nhục mạ dày vò
thế nào, thảy đều là tiêu nghiệp chướng của chính mình. Gặp phải loại
hoàn cảnh này, nếu tất cả buông bỏ, không nghĩ tưởng bất cứ thứ gì, một
lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì ngày giờ nào vãng sanh sẽ có Phật
Bồ Tát an bài, không cần chính ta phải bận tâm, cũng không cần phải vội
vàng. Nên gọi là công phu đủ rồi thì tự nhiên liền thành tựu. Trong phẩm
kinh này đã nói, đó là việc quan trọng hơn bất cứ thứ gì.
Phía trước, chúng ta đọc qua mười phương Phật tán thán nên phẩm kinh
này rất trọng yếu, nếu như không có mười phương Phật giới thiệu thì
chúng ta làm sao biết được có Thế Giới Cực Lạc, làm sao có thể biết được
có đức Phật A Di Đà. Cho nên người giới thiệu không phải ai khác mà là
mười phương chư Phật Như Lai. Việc này chúng ta phải thấy tường tận,
phải thấu đáo, không phải là A La Hán giới thiệu, không phải Bồ Tát giới
thiệu, mà là chư Phật Như Lai giới thiệu, không phải một vị Phật mà là
mười phương ba đời bao gồm tất cả chư Phật giới thiệu cho chúng ta. Vậy
thì có thể giả được hay sao? Việc như thế này chúng ta gặp được mà không
tin tưởng vậy bạn còn tin cái gì? Tất cả chư Phật đến giới thiệu mà bạn
không tin tưởng, vậy thì bạn tin cái gì? Cho nên việc này đáng được
chúng ta tin cậy. Sau khi nghe rồi, biết được giữa vũ trụ này có được
một nơi chốn tu hành tốt đến như vậy, thì phải nên phát tâm.
Có rất nhiều đồng tu thường hay viết thư cho tôi nói họ phát tâm muốn
xuất gia. Quý vị nên đến Thế giới Cực Lạc xuất gia tốt hơn, ở thế gian
này xuất gia đều không dễ gì thành tựu. Cho nên chúng ta một lòng một
dạ, không luận xuất gia tại gia, chỉ cần bạn chí tâm nguyện vãng sanh,
thì bạn quyết định được sanh. Phật tổ nói với chúng ta, pháp môn này là
vạn người tu vạn người vãng sanh. Then chốt ở đâu vậy? chính ở bốn chữ “chí tâm nguyện sanh”,
một lòng một dạ cầu sanh Tịnh Độ, không có ý niệm thứ hai. Chúng ta là
một phàm phu, tuy nhiên lại có được duyên phận thù thắng là nghe được
chư Phật Như Lai xúc tiến giới thiệu cho chúng ta. Thế nhưng mỗi một
người chúng ta, đích thực là tín nguyện có sâu cạn không như nhau, có
người vừa nghe thì liền tin sâu không nghi, có người sau khi nghe rồi
nửa tin nửa nghi, mỗi người không như nhau.
Vào đầu năm dân quốc, lão Hoà Thượng Đế Nhàn có một học trò làm nghề
vá nồi (câu chuyên này có ghi chép trong “Ảnh Trần Hồi Ức Lục”, pháp sư
Đàm Hư khi mở Phật thất ở Hong Kong có giảng, ông có băng ghi âm, tôi từ
nghe băng ghi âm này mà biết được, tôi đã nghe băng ghi âm này từ lâu
rồi), là người thợ vá nồi, không hề đi học, không biết chữ, cả đời cuộc
sống rất là nghèo khổ. Pháp sư Đế Nhàn là bạn thời thơ ấu với ông, họ
cùng sanh ở một thôn trang cho nên lúc nhỏ cùng chơi chung với nhau. Vào
lúc đó, thấy pháp sư Đế Nhàn xuất gia làm pháp sư rồi, ông rất ngưỡng
mộ, cho nên ông liền đi tìm pháp sư Đế Nhàn mong cầu xuất gia. Pháp sư
Đế Nhàn liền khuyên ông không nên xuất gia, tại vì sao vậy? vì tuổi tác
lớn rồi, đã hơn 40 tuổi, vào thời trước hơn 40 tuổi thì gần đến tuổi
già. Ngài nói ông không có đi học, học kinh giáo thì không kịp, người
cũng ngu độn, xuất gia thời khoá sớm tối ông cũng không thể học thuộc,
vậy ông ở trong chùa nhất định bị người khác xem thường, người ta sẽ
khinh khi ông, ông sẽ khó mà sống qua ngày. Dù Pháp sư nói với ông như
vậy nhưng ông nài nỉ là ông không xuất gia không được. Sau cùng Lão pháp
sư Đế Nhàn thương lượng với ông, ngài nói nếu như ông chân thật muốn
xuất gia, vậy thì ông phải nghe lời của ngài nói. Ông ấy nói việc đó thì
không vấn đề gì, ông đã lạy ngài làm sư phụ, ngài nói việc gì thì ông
đều nghe. Thế là Pháp sư cạo đầu cho ông, sau khi cạo đầu rồi, đưa xuống
dưới quê, tìm một cái chùa hoang (lúc đó vào đầu năm dân quốc, quân
phiệt tàn phá, xã hội không an định, cho nên rất nhiều chùa nhỏ không có
người ở), rồi tìm mấy cư sĩ chăm sóc cho ông, đưa chút đồ ăn đến cho
ông, bảo ông ở nơi đó và chỉ dạy ông một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Pháp
sư nói với ông, ông nên một ngày từ sớm đến tối chỉ niệm câu Phật hiệu
này, niệm mệt rồi thì ông nghỉ ngơi, nghỉ ngơi khoẻ rồi thì phải mau
niệm tiếp.
Ông thật biết nghe lời, phương pháp này tốt không có áp lực. Niệm
được hơn ba năm thì công phu của ông thành tựu, ông đứng mà vãng sanh.
Chuyện này cách chúng ta không bao lâu, cũng chỉ là sự việc bảy mươi –
tám mươi năm trước, chân thật không hề giả. Con người này thế nào? Con
người này tín tâm sâu dày, ông có thể tin sâu, không có một chút hoài
nghi, Lão sư dạy ông thế nào thì ông chân thật làm theo. Ba ngày sau khi
ông vãng sanh thì lão Hoà thượng Đế Nhàn mới đến cái chùa đó để lo hậu
sự cho ông. Ngài rất là tán thán ông, ngài nói, thiên hạ (ngài nói thiên
hạ chính là nói toàn nước Trung Quốc), pháp sư giảng kinh nói pháp cũng
không thể sánh được ông, tòng lâm tự viện trụ trì cũng không thể so bì
được ông. Đây là ngài nói về sự thành tựu. Sau khi vãng sanh, ông đứng ở
nơi đó ba ngày. Thành tựu được điều này không có gì ngoài “tin sâu nguyện thiết, thành thật niệm Phật”.
Những người như chúng ta là không thành thật, cho nên ta không thể
thành tựu. Người thành thật thì quyết định có thành tựu, vì người thành
thật không có tạp niệm, người thành thật không có phân biệt chấp trước,
cho nên tâm của họ là thanh tịnh. Tâm của chúng ta không thanh tịnh, tại
vì sao không thanh tịnh? Vì chúng ta có phân biệt, có chấp trước, nên
tâm của chúng ta không thanh tịnh. Do đó trên Kinh Kim Cang nói phá bốn
tướng “vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng”. Tâm bình thì khí hoà, thuận cảnh thiện duyên tâm sẽ không dao
động, nghịch cảnh ác duyên tâm cũng không dao động. Tâm của họ là định,
tâm của người thợ vá nồi là định, ba năm không phải là thời gian quá dài
thì ông liền có thành tựu, hơn nữa thành tựu lại thù thắng đến như vậy.
Ông biết trước giờ ra đi. Sự việc này trong lúc giảng giải chúng tôi
cũng đã nhắc đến rất nhiều lần, rất nhiều đồng tu đều rất quen thuộc.
Tín nguyện mỗi một người chúng ta có sâu cạn khác nhau, phát tâm cũng
có lớn nhỏ không đồng. Có người phát tâm rất nhỏ, chỉ biết chính mình,
chỉ lo gia đình thân bằng quyến thuộc của chính mình, hoặc giả là lo một
đoàn thể; Có người phát tâm rất lớn, có một số người phát tâm chân thật
nghĩ đến thế gian có rất nhiều chúng sanh khổ nạn, cái tâm lượng này
thì lớn. Tu hành thì có người rất tinh tấn, có người giải đãi lười
biếng. Việc trì danh, tụng kinh có như pháp không? Như pháp là một lòng
chuyên chú, không như pháp là đọc kinh nghe kinh vẫn còn khởi vọng
tưởng, vậy thì không như pháp. Cho nên người học Phật rất nhiều, chân
thật là ngàn vạn khác biệt, tình huống của mỗi một người không như nhau.
Đây là nói hiện tiền, nếu hướng chiều sâu mà nói thì thiện căn, phước
đức, nhân duyên trong đời quá khứ của mỗi một người đều không như nhau,
thế nên phẩm vị vãng sanh sẽ có khác biệt rất lớn.
Trên kinh nói ba bậc chín phẩm là nêu ra một thí dụ. Trong cái đoạn
kinh văn này chúng ta có thể thấy được ba bậc là bậc thượng, bậc trung,
bậc hạ. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ thì nói được rõ ràng hơn: trong bậc
thượng có thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung sanh, thượng phẩm
hạ sanh; trong bậc trung có trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung
sanh, trung phẩm hạ sanh; trong bậc hạ có hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm
trung sanh và hạ phẩm hạ sanh. Cho nên ba bậc liền có chín phẩm. Phật
nói đến chỗ này thì chúng ta liền có thể hiểu rõ, liền biết được nói một
nêu lên ba, trong chín phẩm, mỗi một phẩm còn có thượng trung hạ, ba
lần chín là hai mươi bảy, hai mươi bảy trong mỗi một phẩm lại có thượng
trung hạ. Cái đạo lý này phải nên hiểu. Cho nên phẩm loại khác biệt rất
nhiều. Phật vì chúng ta giới thiệu chỉ lượt nói một cách đại khái là
được rồi, cái tỉ mỉ này thì chúng ta phải tự mình thể hội.
Đại đức xưa chú giải, cũng chú giải rất tốt cho chúng ta. Thí dụ như
nói, Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói chín phẩm, trong mỗi một phẩm lại có
chín phẩm, vậy thì chín lần chín tám mươi mốt phẩm, và nếu như uyển
chuyển diễn bày ra thì cái phẩm cấp này là vô lượng vô biên. Cho nên
ngay trong vô lượng vô biên phẩm bậc, chỉ nói ba bậc vì ba bậc này đã
hàm chứa tất cả người vãng sanh khác nhau. Nhân duyên vãng sanh phức tạp
đến như vậy, khác biệt nhau rất xa, cũng không phải là việc người thông
thường chúng ta có thể tưởng tưởng ra được. Thế nhưng chúng ta thường
hay hỏi trong vô lượng vô biên nhân duyên thì nhân duyên quan trọng nhất
là gì? Điểm này rất quan trọng. Thí dụ như ở trên Phật thường hay nói
với chúng ta mười pháp giới, thành tựu trong mỗi một pháp giới là có vô
lượng nhân duyên. Vậy thì nhân duyên nào quan trọng nhất? Tôi trong lúc
giảng kinh nói pháp thường hay dùng loại phương tiện, thí dụ nói trong
mười pháp giới, một cái nhân quan trọng nhất trong pháp giới Phật chính
là tâm bình đẳng, bình đẳng là Phật. Có vô lượng nhân duyên thành tựu
quả Phật và đây là cái nhân thứ nhất. Cái tâm này của chúng ta thường
hay bất bình, bất bình thì rất phiền não, cho nên nếu bạn chân thật muốn
cầu đạo thành Phật, thì cần phải ở ngay trong tất cả cảnh giới tu tu
tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là trực tiếp thành Phật.
Nhân thứ nhất của Bồ Tát là Lục Độ; nhân thứ nhất của Bích Chi Phật
là mười hai nhân duyên; nhân thứ nhất của A La Hán là Tứ Đế; nhân thứ
nhất của Thiên nhân là tứ vô lượng tâm, thượng phẩm mười thiện; nhân của
cõi người là năm giới; nhân thứ nhất của cõi súc sanh là ngu si; nhân
thứ nhất cõi ngạ quỷ là tham ái, lòng tham làm ngạ quỷ; nhân thứ nhất
cõi địa ngục là sân hận. Đây là Phật nói với chúng ta về cái nhân thứ
nhất.
Ngày nay chúng ta cầu vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ, vậy thì cái nhân
duyên thứ nhất để vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ là gì? Việc này trên kinh
rõ ràng nói với chúng ta là “Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di
Đà Phật”. Đây là nhân duyên thứ nhất để vãng sanh Thế giới Tây Phương
Cực Lạc, nên bạn cần phải ghi nhớ “Phát tâm bồ đề, một lòng chuyên
niệm”. Hiện tại có rất nhiều người niệm Phật, niệm được cả đời nhưng
không thể vãng sanh, đó là do nguyên nhân gì? Là do họ hiểu sai cái nhân
này, họ quên mất đi phát tâm Bồ Đề, chỉ chú trọng ở một lòng chuyên
niệm, cho nên họ chỉ có phân nửa, phân nửa còn lại thì họ không có. Họ
không biết được Phật cùng tổ sư thường hay dạy bảo chúng ta rằng: Có thể
vãng sanh hay không là do có tín nguyện hay không. Cái tín nguyện này
chính là tâm Bồ Đề. Do đây có thể biết có thể vãng sanh được hay không,
cái nhân thứ nhất là bạn có phát tâm Bồ Đề hay không. Tâm Bồ Đề chính
là tín nguyện, chân tín nguyện thiết. Trong Kinh A Di Đà Yếu Giải, Đại
sư Ngẫu Ích đã nói được rất hay về việc này, cho nên Đại sư Ấn Quang tán
thán đối với Kinh A Di Đà Yếu Giải là “cho dù cổ Phật tái lai chú giải
cho Kinh A Di Đà cũng không thể nào vượt hơn được lời chú giải này”. Đây
là lời tán thán đến cực điểm.
Năm xưa, khi tôi vừa đến Singapore hoằng pháp, lúc đó pháp sư Diễn
Bồi vẫn còn, ông là bạn già của tôi, khi tôi chưa xuất gia, tôi thường
hay nghe ông giảng kinh, tôi rất quen thuộc với ông bởi vì khi tôi đến
nghe kinh tôi đều ngồi ngay hàng thứ nhất đối diện với ông. Lão pháp sư
lớn hơn tôi mười tuổi, nhưng khi tôi đến Singapore thì ông đến phi
trường đón tôi, khi tôi đi ông đến phi trường đưa tôi đi. Đây là vì pháp
sư giảng kinh không nhiều nên ông rất là ưu ái tôi. Từng có một lần tôi
đến đạo tràng của ông để thăm viếng ông, ông mời tôi ăn cơm, ông hỏi
tôi: pháp sư Ấn Quang tán thán đối với Kinh A Di Đà Yếu Giải có phải là
quá đáng hay không? Tôi đã trả lời ông là chính tôi tu Tịnh Độ nhiều năm
như vậy, Kinh A Di Đà cũng đã giảng qua rất nhiều lần, tôi cảm thấy lời
nói của lão pháp sư Ấn Quang rất là chính xác, không có chút nào quá
đáng cả. Thực tế mà nói Kinh A Di Đà Yếu Giải rất hy hữu và thật sự đem
nghi hoặc nhiều năm của chúng ta phá trừ hết. Nghi cái gì vậy? rõ ràng
trên Kinh Vô Lượng Thọ nói “phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”, thế
nhưng có rất nhiều người thật sự niệm Phật vãng sanh giống như người thợ
vá nồi kia. Người thợ vá nồi có phát tâm Bồ Đề hay không? cái gì gọi là
tâm Bồ Đề ông còn không biết, từ trước đến giờ chưa từng nghe nói qua,
vậy ông làm sao có thể vãng sanh?
Chúng ta ở ngay trong một đời này chính mắt nhìn thấy, chính tai nghe
được có những người vãng sanh tướng tốt hy hữu là đứng mà ra đi, ngồi
mà ra đi, biết trước giờ ra đi, tướng lạ hy hữu, tổng cộng có mười mấy
hai mươi người. Những người này có thể làm minh chứng cho chúng ta. Tìm
hiểu trong số những người đó phần nhiều đều không biết chữ, nhưng hành
nghi của họ thì đều là người tốt, con người đều rất lương thiện từ bi,
đó là người tốt chân thật trong xã hội, thế nhưng họ không biết chữ, rất
nhiều người chưa nghe qua kinh, người ta dạy họ niệm Phật thì họ thành
thật trung thực mà niệm, niệm hai - ba năm thì họ thật có thành tựu, cho
nên chúng ta liền cảm nhận được về phát tâm Bồ Đề một lòng chuyên niệm,
đại khái họ chỉ có một lòng chuyên niệm, mà không có phát tâm Bồ Đề.
Đọc Kinh Di Đà Yếu Giải của Đại sư Ngẫu Ích rồi mới bỗng nhiên hiểu ra, thì ra là chân tín nguyện thiết chính là tâm Vô Thượng Bồ Đề.
Đây là Đại sư Ngẫu Ích trong chú giải đã nói: “phát tiền nhân chi sở vị
phát”, phát là phát minh, tổ sư đại đức xưa nay không có nói qua lời
nói này cho chúng ta biết, nên bạn không biết là bạn vừa khuyên họ, họ
liền tin sâu thì tin sâu chính là tâm Bồ đề, tin sâu phát nguyện chính
là tâm Bồ Đề. Chính họ đã phát ra tâm vô thượng Bồ Đề nhưng chính họ
tuyệt nhiên không hề biết. Nếu bạn hỏi họ tâm Bồ Đề là cái gì thì họ
không hiểu, họ không biết được, thế nhưng họ tín tâm đối với Tịnh Tông
kiên định không dao động. Hiện tại người niệm Phật chúng ta thật đúng
như người xưa nói: “lộ thủy đạo tâm”, lộ thủy tức là sương sớm, lúc sáng
sớm thì có, khi mặt trời lên một lát thì liền mất, bị nắng khô hết, tức
là đạo tâm như sương sớm, nghe được người khác nói một pháp môn gì đó
tốt, phương pháp hay, tín tâm lập tức liền bị dao động. Hiện tại nghe
nói trong đại lục có một vị pháp sư trẻ, tuổi tác đại khái không quá
lớn, đề xướng ngũ hội niệm Phật, nói niệm một ngàn vạn danh hiệu liền có
thể chứng Tam Thân Phật quả. Niệm một ngàn vạn danh hiệu không khó, một
ngày niệm mười vạn danh hiệu, mười ngày thì một trăm vạn, không đến một
năm sẽ niệm được một ngàn vạn danh hiệu. Mọi người đến hỏi tôi, tôi nói
bạn có thể thử nghiệm, sau khi niệm xong một ngàn vạn danh hiệu trong
thời gian không đến một năm, xem bạn có chứng được Tam Thân Phật không.
Nếu như không chứng được thì sao? Vậy thì chính là giả, không phải là
thật, điều này có thể làm thử nghiệm.
Do đây có thể biết bạn nghe việc này rồi thì cho là pháp môn này tốt,
tín tâm của bạn dao động, như vậy có thể vãng sanh hay không? Theo tôi
thấy bạn không thể vãng sanh, vì vãng sanh phải có tín tâm thanh tịnh, nguyện tâm kiên định,
loại người này khẳng định vãng sanh, loại tâm hời hợt bất định như bạn
thì bạn làm sao có thể vãng sanh, làm gì có loại đạo lý này. Ông ấy nói
Bồ Tát gì đó dạy cho ông ấy phương pháp, ngoài ra nếu có người khác nói
Phật dạy tôi phương pháp còn cao hơn Bồ Tát thì bạn phải làm sao? Bạn
liền bỏ cái này để học cái kia à. Cho nên có rất nhiều đồng tu hỏi tôi
là phải nên dùng thái độ gì để đối diện với những người này. Tôi liền
nói với họ, ngày trước chúng ta đã từng giảng qua Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật, trong Chương Thượng Phẩm Thượng Sanh đã giảng rất tường tận, rất
thấu triệt. Chương Thượng Phẩm Thượng Sanh chúng tôi đã có giảng qua,
đều có lưu thông băng ghi âm.
Lời răn dạy sau cùng trước khi Thế Tôn diệt độ là dạy cho chúng ta
mấy câu quan trọng hơn bất cứ thứ gì, Ngài đã dạy bảo chúng ta phải “lấy
giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”, hai câu nói này rất quan trọng.
Ngoài ra, Đức Phật còn dạy chúng ta Tứ Y Pháp, gồm:
- Thứ nhất là Y Pháp Bất Y Nhân: pháp là kinh điển, phải y theo trên kinh điển đã nói, không thể nói một người nào đó truyền lại.


- Thứ hai là Y Nghĩa Bất Y Ngữ: chúng ta phải y theo
đạo lý nghĩa lý trên kinh điển đã nói, ngôn ngữ không quan trọng, nói
nhiều nói ít, nói cạn nói sâu cũng không quan hệ gì, Phật nói câu nói
này, dụng ý rất là sâu, bởi vì Phật biết được, tương lai Phật pháp lưu
truyền bốn phương tám hướng, vậy thì quốc gia khác nhau, chủng tộc khác
nhau sẽ có văn tự khác nhau. Ngôn ngữ khác nhau nên nhất định cần phải
dựa vào phiên dịch, phiên dịch thế là liền dẫn đến sự hoài nghi là họ
phiên dịch có giống y như trên kinh đã nói hay không. Cho nên Phật dạy
“y nghĩa bất y ngữ”, tức là chỉ cần ý nghĩa đúng, ngôn ngữ không quan
trọng, văn tự không quan trọng, chỉ cần ý nghĩa đúng. Việc này phá trừ
đi nghi hoặc này của chúng ta. Ở Trung Quốc có rất nhiều kinh được phiên
dịch nhiều lần, như các vị đều biết Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật ở
Trung Quốc có sáu loại bản dịch, chính là có sáu người phiên dịch khác
nhau, nguyên bản chỉ có một, sáu loại bản dịch này chúng ta lấy xem qua,
câu cú lời dịch không như nhau, thế nhưng ý nghĩa như nhau, vậy thì
được rồi, bạn nương vào một quyển nào cũng đều được.

Bản dịch
Kinh Vô Lượng Thọ thì còn nhiều hơn, việc này trên lịch sử đã ghi chép,
Kinh Vô Lượng Thọ từ nhà Hán, từ hậu Hán mãi đến triều Tống, khoảng 800
năm tổng công có 12 lần phiên dịch, thế nhưng các vị có thể xem thấy
trong lời tựa của cư sĩ Mai Quang Hy, nội dung các bản dịch Kinh Vô
Lượng Thọ này khác biệt quá lớn, quyết định không phải chỉ có một nguyên
bản, không phải quyển kinh mà những người phiên dịch dùng để dịch là
cùng một quyển văn tiếng Phạn. Hiện tại mọi người phán đoán, chí ít có
đến ba nguyên bản tiếng Phạn, ba loại khác nhau. Điều này thể hiện rõ
Thế Tôn năm xưa ở đời đã nhiều lần tuyên giảng bộ kinh này, mỗi lần
giảng mọi người ghi chép lại không giống nhau, nhiều lần tuyên giảng mới
có tình trạng này. Điều này rất đặc thù, tất cả kinh Phật nói chưa từng
có bộ kinh nào nói qua đến hai lần, chỉ riêng bộ kinh này ít nhất giảng
qua ba lần. Khác biệt lớn nhất giữa các bản kinh là gì vậy? Chính là
nguyện, số tự của nguyện, việc này phiên dịch như thế nào cũng không thể
có sai biệt lớn đến như vậy, bạn xem có 48 nguyện, có 36 nguyện, có 24
nguyện, vậy thì khác biệt quá lớn. Cho nên từ chỗ này mà thấy, đó là
nhiều lần tuyên giảng. Ở Trung Quốc chúng ta cũng đã nhiều lần phiên
dịch, thế nhưng 12 loại bản dịch này hiện tại chỉ còn lại 5 loại, thâu
tập trong Đại Tạng Kinh chỉ có 5 loại, ngoài ra 7 loại khác bị thất
truyền. Cho nên Phật dạy “y nghĩa bất y ngữ” để đoạn trừ đi cái nghi
hoặc của chúng ta. Chúng ta phải tin tưởng đại đức xưa phiên dịch nhất
định không có sai lầm, phải có loại tín tâm này.


- Thứ ba là Y Liễu Nghĩa Bất Y Bất Liễu Nghĩa: cái gì
gọi là liễu nghĩa vậy? Ngay trong một đời này của chúng ta nhất định có
được lợi ích, đó là liễu nghĩa, ngay trong một đời này ta học tập mà
không có được lợi ích, đối với tôi mà nói đó không phải là liễu nghĩa.
Cho nên liễu nghĩa của mỗi người không giống nhau, nhưng nhất định phải
được lợi ích chân thật. Lợi ích chân thật này là gì? Đích thực là có thể
giúp chúng ta siêu vượt sáu cõi luân hồi, giúp chúng ta chân thật thấy
được Phật A Di Đà, vậy thì liễu nghĩa đối với ta.


- Câu sau cùng là Y Trí Bất Y Thức: điều này rất là
quan trọng. Phàm phu chúng ta luôn luôn dùng cảm tình để làm việc nên
chỗ này Phật đặc biệt dạy bảo chúng ta phải dùng lý trí, không nên dùng
cảm tình, dùng cảm tình thì bạn nhất định sẽ đi sai đường nên nhất định
phải dùng lý trí. Lời nói này không những Phật thường nói, mà ngay đến
giáo học của thế gian, nhà Nho cũng rất là xem trọng. Nhà Nho nói khi
Nghĩa và Lợi bày ra ngay trước mắt ta, chúng ta chọn lợi hay là chọn
nghĩa sẽ cho thấy được sự tu dưỡng của một người, thấy được đức hạnh của
một người. Nghĩa và lợi bày ra ngay trước mắt, nếu chỉ lấy lợi mà không
màng đến nghĩa thì sai rồi. “Khổng viết thành nhân, Mạnh viết thủ
nghĩa”, con người nhất định phải hiểu được nhân nghĩa đạo đức, không nên
đem lợi hại để trên hàng đầu, nếu đem lợi hại của mình để lên hàng đầu,
thì đã quên mất đi nhân nghiã, đó là bỏ mất đi điều kiện làm người, hay
nói cách khác, đời sau bạn không thể có lại được thân người. Các vị thử
nghĩ xem, thân người cũng không thể có được thì họ làm sao có thể gặp
được Phật pháp? Làm sao có thể vãng sanh Thế Giới Cực Lạc? Việc này
chúng ta không thể nào không hiểu rõ.

Cho nên phải y lý trí,
không nên dùng cảm tình mà làm việc. Điều này nghĩa là gì vậy? Nghĩa
chính là nên làm hay không nên làm, cách làm này của chúng ta có nên làm
hay không, không nên làm thì không được làm.
Phật dặn bảo chúng ta như vậy, dạy bảo chúng ta như vậy, chúng ta
nhất định phải hiểu được, phải y theo giáo huấn của Phật. Cho nên mỗi
một người nếu như tường tận Tứ Y Pháp thì sẽ không bị những tà sư nói
pháp này mê hoặc. Trên Kinh Lăng Nghiêm nói: “thời kỳ mạt pháp, tà sư
nói pháp như cát sông Hằng”, đặc biệt là thời đại hiện đại này, thật sự
gọi là thiên hạ đại loạn. Chúng ta thường hay nói đến tôn giáo, tôi nghe
người phương tây báo cáo, ở vào thế kỷ này, có rất nhiều tôn giáo mới
thành lập, toàn thế giới đại khái có đến bao nhiêu tôn giáo vậy? Khoảng
hơn hai ngàn tôn giáo, không phải chỉ có chín tôn giáo như Singapore
chúng ta, tôi thật không thể ngờ có hơn hai ngàn tôn giáo. Cho nên việc
này chân thật như Phật nói “tà sư nói pháp như cát sông Hằng”. Chúng ta
không thể không cẩn trọng, không thể không thận trọng. Cho nên gặp được
Phật pháp đó là việc vô cùng may mắn, gặp được Phật pháp thật không dễ
dàng gì.
Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật là tổng cương lĩnh
tu hành của bộ kinh này, là tổng nguyên tắc, là then chốt vãng sanh Thế
Giới Tây Phương Cực Lạc. Ba bậc vãng sanh, chúng ta thảy đều có phần.
Then chốt là ở đâu? Ở nguyện, ở hành, ở công đức, ba điều này là quan
trọng hơn bất cứ thứ gì. Nguyện, hành, công đức ở chỗ nào vậy? Ở ngay
trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, ở ngay trong công việc, ở ngay
trong đối nhân xử thế tiếp vật. Cho nên chúng ta đối với kinh giáo
không thể không thuần thục. Trên kinh Phật thường hay dạy chúng ta phải
thâm giải nghĩa thú, chúng ta hiểu kinh điển được cạn thì không được,
hiểu cạn thì bạn vãng sanh phẩm vị không cao, bạn phải hiểu sâu, càng
sâu càng tốt, phải giải được thấu triệt, như vậy thì vãng sanh Thế Giới
Tây Phương Cực Lạc phẩm vị sẽ cao. Phẩm vị cao thấp quan hệ rất lớn,
vãng sanh đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc phẩm vị thấp thì thời gian
chứng được Phật quả cứu cánh dài, nếu như vãng sanh đến Thế Giới Tây
Phương Cực Lạc phẩm vị cao thì tương lai thời gian thành Phật sẽ ngắn,
quan hệ chính ngay chỗ này. Thế nhưng cho dù cách nói thế nào đi chăng
nữa, chỉ cần có thể vãng sanh thì đều là nhân duyên hy hữu, cho dù là hạ
hạ phẩm vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Chúng ta xem thấy ở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, từ thời điểm đến
Thế Giới Tây Phương Cực Lạc cho đến khi hoa nở thấy Phật cần phải mất
bao nhiêu thời gian? Là mười hai kiếp. Mười hai kiếp theo cách nhìn của
chúng ta mà nói là rất dài, thế nhưng ở ngay trong tầm mắt thông thường
của Bồ Tát tu hành mà thấy, thì là quá ngắn. Bạn thấy trong Kinh Hoa
Nghiêm, pháp thân Bồ Tát thường nói “Viên Giáo sơ trụ”, chứng được Viên
Giáo sơ trụ, pháp thân Bồ Tát rồi, thông qua 51 giai đoạn để phá 41 phẩm
vô minh, chứng được cứu cánh Phật quả, cần phải bao nhiêu thời gian? Là
ba đại A Tăng Kỳ kiếp. Bạn ở Thế Giới Tây Phương Cực Lạc chỉ có 12 kiếp
thì thành tựu rồi. Như vậy thì bạn có thể biết được sự thù thắng của
Thế Giới Tây Phương, bạn có thể biết được tại sao Chư Phật Như Lai tán
thán Tây Phương Tịnh Độ. Thật quá hy hữu. Bạn không vãng sanh thì không
còn cách nào. Nếu bạn vãng sanh được, Thế giới Cực Lạc so với tất cả thế
giới khác là lớp cấp tốc, thành tựu không thua kém với những người trải
qua ba A Tăng Kỳ kiếp tu tập, thành thật mà nói là chỉ có cao minh hơn.
Bạn nói xem thù thắng dường nào?
Cho nên cơ hội này, đích thực là như trên kệ khai kinh đã nói: “Trăm
ngàn muôn kiếp khó được gặp”. Ngay đời này của chúng ta được thân người,
gặp Phật pháp, gặp được kinh điển tốt đến như vầy là hy hữu không gì
bằng, phải nên đáng được vui mừng, phải nắm chặt cái cơ duyên tốt này,
vạn nhất không thể để lỡ qua, phải nên biết sự việc ngay trong đời này
gặp được là không dễ dàng. Cư sĩ Bàng Tế Thanh nói: “…Một ngày mà từ vô
lượng kiếp đến nay hy hữu khó gặp”, nhưng chúng ta đã gặp được rồi.
Chúng ta tu học cái pháp môn này, cũng gặp phải không ít khổ nạn. Mấy
năm trước, âm thanh phản đối bổn hội tập này vang dội tận mây xanh, họ
nêu tên hủy báng nhục mạ bằng miệng, trên văn tự, trên báo chương tạp
chí, có một số đồng tu gởi đến cho tôi xem. Còn có một số đồng tu có
lòng tốt muốn thành lập một nhóm nhỏ để phản bác, đến nói với tôi, tôi
liền ngăn cản họ, tôi nói quyết định không được như vậy, họ mắng cứ để
cho họ mắng, mắng mệt rồi họ sẽ không mắng nữa, viết cứ để họ viết, viết
mệt rồi thì họ sẽ không viết nữa, vạn nhất không nên đối đầu với họ.
Khi tranh cãi, hai người mắng nhau càng mắng càng hăng sẽ không có điểm
dừng, nếu như một người mắng, một người không nói một câu nào thì mắng
hai giờ đồng hồ sẽ không mắng nữa; đánh nhau cũng là như vậy, hai người
đánh nhau càng đánh càng dữ, nếu như một người đánh một người nằm xuống
đất thì họ còn có thể đánh được hay sao? Cho nên tôi dạy người, là bị
mắng không trả lời, bị đánh không đánh lại, cứ mặc tình họ. Đến hiện tại
âm thanh này không còn nữa, người viết mắng cũng đã viết mệt rồi nên họ
cũng không viết nữa.
Mỗi người tu là việc của mỗi người, bạn không tin tưởng thì tôi tin
tưởng, vô lượng pháp môn ưa thích một pháp môn nào cũng được, không có
thứ nào không tốt. Chúng ta phải giữ lấy một nguyên tắc mà Thế Tôn đã
dạy là quyết không phê bình pháp môn khác. Điều này học được ở đâu vậy?
Học được từ Kinh Hoa Nghiêm. Bạn thấy Thiện Tài Đồng Tử 53 lần tham học,
pháp môn mà 53 vị thiện tri thức đã tu đều không như nhau, không hề
giống nhau, thế nhưng thái độ tu hành của những vị thiện tri thức này
đều là chính mình khiêm tốn, tán thán người khác, đó là làm điển hình,
làm ra tấm gương cho chúng ta xem. Cho nên chúng ta phải khiêm tốn đối
với pháp môn chính mình đã tu. Người ta hỏi tại sao bạn tu Tịnh Độ? Bạn
nói tôi rất ngu, không được thông minh, tôi không thông minh trí tuệ để
nghiên cứu giáo lý, cũng không có thiện căn sâu dày để tham thiền, nên
đành phải niệm A Di Đà Phật, tán thán đối với pháp môn của người khác,
chúng ta tự thấy không bằng. Lời nói này là đều thật, không phải là giả,
thành thật trung thực tu pháp môn này, hy vọng có thể ở trong thời gian
không quá dài, khoảng 3 năm hoặc 5 năm chúng ta liền có thể lấy được
phần vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Chân thật nắm chắc được phần vãng sanh có nghĩa là bạn có thể vãng
sanh, điều kiện vãng sanh đã chín muồi. Điều kiện vãng sanh chín muồi
rồi bạn có nên đi hay không? Vậy thì bạn cần phải có trí tuệ của bạn,
lúc này có nên đi hay không không phải do nghiệp nhân nào khác, mà là có
duyên với chúng sanh nữa hay không? Có duyên với chúng sanh thì bạn
phải ở thêm vài năm, bạn phải giúp đỡ chúng sanh; không có duyên thì
phải mau đi, không một chút lưu luyến, đó là hiểu được cái đạo lý này.
Người chân thật có điều kiện vãng sanh, nhân tố khảo lượng của họ chính
ngay chỗ này. Cái gì gọi là có duyên? Là thế gian này còn có người chịu
theo học với bạn, còn có người bằng lòng nghe theo bạn, đây chính là có
duyên. Bạn không thể không giúp cho họ, nếu bạn không giúp họ thì có lỗi
với họ, bạn không thể chỉ lo cho chính mình mà phải lo cho người khác.
Vì sao gọi là không có duyên? Là người thế gian này không bằng lòng nghe
theo bạn, khởi lên tâm chán ghét bạn, ở trong tình huống này thì bạn
phải nên ra đi rồi, quyết định không có lưu luyến gì đối với thế gian
này.

Đến Thế giới Cực Lạc thân cận A Di Đà Phật để tấn tu,
nâng cao đức hạnh của chính mình, nâng cao trí tuệ của chính mình, đợi
đến nhân duyên chín muồi như trong Phật pháp thường nói “thừa nguyện tái
lai” thì liền lại đến. Phật, Bồ Tát không giống như người phàm chúng
ta, người phàm nếu như là đã đắc tội rồi, hai người gây lộn nhau rồi thì
lần sau bạn mời họ đến họ sẽ không đến, Phật, Bồ Tát thì không như vậy.
Phật Bồ Tát sau khi ồn ào rồi, bạn nói tôi thích ngài đến vậy thì Phật,
Bồ Tát liền đến. Đây gọi là đại từ đại bi, là lý trí, không phải dùng
cảm tình, phàm phu chúng ta dùng cảm tình nên giận dữ sẽ giận rất lâu,
Phật Bồ Tát không vậy. Việc này chúng ta phải hiểu rõ, chúng ta cũng
phải học tập. Cho nên tất cả phải tuỳ duyên, không được phan duyên.
Cẩn Dịch: Cư Sĩ Vọng Tây
Biên tập: Cư sĩ Diệu Hiền
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Empty
Bài gửiTiêu đề: TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần cuối)    TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)  Icon_minitimeWed May 25, 2011 9:57 pm

TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần cuối)

(Trích lục từ Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác )
Người giảng: Lão Hoà Thượng Tịnh Không
Địa điểm: Đạo tràng Cư Sĩ Lâm, Singapore
Thời gian: ngày 11 tháng 06 năm 2004

**************
Trong lúc giảng giải chúng tôi thường hay nói đến tâm Bồ Đề. Bồ Đề là
tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung Quốc nghĩa là giác. Giác là từ trên
dụng mà nói, vậy thể của nó là gì? Thể là trí. Trong Kinh Kim Cang đã
nói, tự tánh vốn đầy đủ Trí tuệ Bát Nhã, không phải học được từ bên
ngoài, tín tâm thanh tịnh tất sanh thật báo. Trong mỗi một chúng sanh
chúng ta, thực tướng Bát Nhã trong tự tánh vốn sẵn đầy đủ, nhưng tại vì
sao ngày nay trí tuệ của bạn không có? Tại sao trí tuệ lại biến thành
phiền não? Chúng ta thường hay xem thấy trên kinh nói: phiền não tức Bồ
Đề. Ý nghĩa của câu nói này rất sâu, đích thực là nếu như bạn ngộ rồi
thì Phiền Não chính là Bồ Đề, mê rồi thì Bồ Đề chính là Phiền Não. Cho
nên Phiền Não cùng Bồ Đề là một thể hai dụng, khi giác ngộ thì gọi là Bồ
Đề, khi mê thì gọi là phiền não, nó là một không phải là hai. Theo đây
thì có thể biết phiền não có thể đoạn hay không? phiền não đoạn rồi thì
Bồ Đề cũng không có, Bồ Đề cũng bị đoạn luôn. Cho nên phiền não không
thể đoạn, mà phiền não chuyển biến thành Bồ Đề, phiền não không còn thì
thảy đều biến thành Bồ Đề. Chúng ta gọi là đoạn phiền não nhưng không
phải thật đoạn, mà là chuyển biến. Tánh đức là bất sanh bất diệt, không
đến không đi, tận hư không khắp pháp giới, thì làm sao có thể đoạn chứ?
Cái đạo lý này phải nên biết. Cho nên chỉ cần chúng ta biết học chuyển
biến: chuyển mê thành ngộ, chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển sanh tử
thành Niết Bàn.
Chỗ cao minh của Phật, Bồ Tát là các Ngài biết chuyển, chúng ta thì
rất đáng lo vì chúng ta không biết chuyển, chúng ta càng chuyển càng
đáng lo, từ cõi người chuyển xuống súc sanh, từ súc sanh chuyển xuống
ngạ quỷ, từ ngạ quỷ chuyển xuống địa ngục, càng chuyển càng đáng lo.
Việc này chính là gì vậy? Đó chính là phiền não đang làm chủ tể để
chuyển nên bạn càng chuyển càng đáng lo. Còn chư Phật, Bồ Tát thì sao?
Các Ngài là trí tuệ làm chủ tể để chuyển, nên các Ngài càng chuyển càng
thù thắng. Chúng ta phải hiểu cái đạo lý này. Cho nên tóm lại, chúng
ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày,
nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không
hư vọng
, nếu là hư tình giả ý thì thật là đáng lo lắng. Hư tình giả ý
thì càng chuyển càng đi xuống, nếu bạn dùng tâm chân thành thì càng
chuyển càng lên cao. Việc này rất quan trọng, rất then chốt, quyết định
không nên sợ thiệt thòi. Người thế gian này đều là dùng hư tình giả ý
đối với ta, ta làm sao có thể dùng tâm chân thành đối với người? nếu
người ta dùng hư tình giả ý đối với bạn, bạn cũng dùng hư tình giả ý đối
với người ta, người ta hướng xuống mà chuyển, bạn cũng theo hướng xuống
chuyển. Vậy thì sai rồi. Hơn nữa đây là lời thật, Phật không nói lời
giả dối, bạn dùng tâm chân thành thì bạn sẽ không thiệt thòi, cũng sẽ
không lỗ lã, dùng tâm hư vọng mới chân thật là thiệt thòi lỗ lã. Họ bị
hoa mắt cả rồi nên không thấy tường tận, trước mắt dường như họ chiếm
được chút lợi nhỏ nhưng hoạ hoạn lập tức liền hiện tiền, rất là đáng sợ.
Chỉ nên dùng tâm chân thành, người thành thật có thể đáng tin cậy, họ
không bị đoạ lạc, họ chỉ có hướng lên trên cao.
Người tốt nhất định có quả báo tốt, đó là đạo lý đương nhiên, đó là
chân lý. Cho nên chúng ta đối với những đạo lý này, đối với chân tướng
sự thật phải rõ ràng, phải tường tận. Chúng ta phải dùng tâm chân thành,
chúng ta phải dùng tâm thanh tịnh. Tâm chân thành là thể của tâm Bồ Đề,
thanh tịnh bình đẳng giác cùng đại từ bi đều là đức dụng của tâm chân
thành, nó biểu hiện ở nơi sự tướng, ở trên tác dụng thì đối với chính
mình chính là tu thanh tịnh, tu bình đẳng. Thanh tịnh, bình đẳng tu ở
nơi đâu vậy? Tu ở nơi con người. Người xưa thường nói: “làm việc khó,
làm người càng khó”, cho nên không luận là thuận cảnh nghịch cảnh, đều
là hoàn cảnh tốt để tu hành. Tại vì sao vậy? Vì những tập khí này của
chúng ta, phiền não nghiệp chướng của chúng ta phải đem nó tiêu trừ, hóa
giải hết ngay trong cuộc sống thường ngày. Việc này là quan trọng. Cho
nên phát tâm Bồ Đề rồi thì tự nhiên tín tâm của bạn liền sâu dày, nguyện
tâm của bạn liền kiên định, tuyệt đối sẽ không bị dao động. Nếu bạn
không biết được là chính bạn phát ra cái tâm sâu cạn như thế nào, thì
bạn có thể ở ngay trên điểm này mà khảo nghiệm, mà trắc nghiệm chính
mình là rốt cuộc tâm của ta sâu đến trình độ nào? Hoàn toàn có thể ở
trên sự tướng mà khảo nghiệm. Bạn có thể vượt qua được khảo nghiệm hay
không? Từ ngay chỗ này có thể trắc nghiệm tín nguyện của chính mình. Nếu
bạn chân thật thành tựu được tín nguyện này thì không luận ở trong tình
huống nào, bạn đều có thể giữ gìn tâm mình không dao động, lúc nào bạn
cũng sanh tâm hoan hỉ. Trên Kinh Phật nói là “y pháp bất y nhân”, trong
kinh nói quyết định vãng sanh thì còn có thể sai được sao?
Đại sư Ngẫu Ích giảng về nhất hướng chuyên niệm rất hay, Ngài nói:
“phẩm vị cao thấp quyết định ở công phu niệm Phật sâu cạn”, không có nói
niệm nhiều ít. Việc này phải nên hiểu, không phải nói niệm được nhiều
thì công phu được sâu, niệm ít thì công phu cạn, không phải như vậy. Khi
niệm câu Phật hiệu này của bạn niệm có lực hay không, bạn một ngày niệm
mười vạn danh hiệu Phật không có lực thì không phải là công phu sâu. Vì
sao gọi là không có lực? Là không thể khắc phục được phiền não tập khí,
một mặt niệm một mặt còn khởi vọng tưởng thì công phu này không có lực,
vậy là không được, họ niệm một câu, mười câu mà họ niệm có lực, họ đích
thực có thể hàng phục được phiền não, không để phiền não khởi tác dụng,
thì đó gọi là công phu. Cho nên người ta nói không phải nói niệm Phật
số lượng bao nhiêu, không phải nói việc này, mà là nói công phu niệm
Phật sâu cạn sẽ quyết định phẩm vị vãng sanh của bạn. Do đây có thể
biết, vãng sanh không khó cũng không dễ, điểm then chốt nhất là chúng ta
phải chân thật vì sanh tử mà phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, hay nói cách
khác, trước tiên bạn phải chân thật hiểu rõ luân hồi là khổ, khổ đến
không nói ra lời.
Tiên sinh Giang Dật Tử ở Đài Trung cũng là học trò của Thầy Lý Bỉnh
Nam, là bạn học với tôi. Ông là một nhà hội hoạ đương đại, ông vẽ một
bức tranh Địa Ngục Biến Tướng, bức hoạ này rất hay. Bức tranh tổng cộng
dài đến 60 mét bao gồm lời tựa cùng lời giới thiệu của ông. Bức hoạ này
thật to lớn, chúng ta ở nơi đây có thể xem thấy phía sau phù điêu của
500 vị A La Hán, nhưng tôi không biết nó có dài đến 60 mét hay không?
Bức hoạ này đã hoàn thành. Nếu bạn tỉ mỉ mà xem bức hoạ này sẽ biết được
địa ngục là đáng sợ. Do vì có bức hoạ này nên đã khiến chúng tôi tra
tìm phần Phật giảng về địa ngục trong Đại Tạng Kinh, từ trước đến giờ
không có cái động cơ này nhưng vì có bức hoạ này, chúng ta liền được có
động cơ kiểm tra trong Đại Tạng Kinh. Tôi nhờ ba đồng tu, họ đã dùng
thời gian hơn hai tuần để tìm trong Đại Tạng Kinh xem Thích Ca Mâu Ni
Phật giảng tình hình của địa ngục như thế nào. Kết quả tìm được 25 bộ
kinh luận. Thế Tôn không những chỉ nói đến địa ngục, mà còn nói đến một
số tình hình trong địa ngục còn đáng sợ hơn so với thầy Giang hoạ vẽ ra.
Bức hoạ của ông là y theo Ngọc Lịch Bảo Giám mà vẽ ra, Ngọc Lịch Bảo
Giám là của Đạo giáo, nói mười điện Diêm La, lấy mười điện Diêm La làm
cương lĩnh mà vẽ ra. Hiện tại chúng ta biết được, ở trong kinh Phật nói
tình hình của địa ngục rất tường tận, rất là vi tế, nói chúng ta ở ngay
trong cuộc sống thường ngày, khởi tâm động niệm đều có nhân quả. Sau khi
xem những kinh văn này rồi, bạn lại đọc kinh Địa Tạng thì tâm tình của
bạn liền sẽ không như trước.
Trên kinh Địa Tạng nói: “chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm
thảy đều là tạo ra tội nghiệp”. Chúng ta thường chỉ đọc lướt qua thôi,
Phật nói nghiêm trọng đến như vậy nhưng rốt cuộc nghiêm trọng đến mức độ
nào thì chúng ta không biết được. Bạn xem kinh điển này thì liền biết
rõ, đặc biệt là trên kinh Phật nói nghiệp nhân quả báo của khởi tâm động
niệm lời nói việc làm rất rõ ràng, rất hoàn hảo hơn nhiều so với đạo
giáo đã nói. Đồng tu tra kinh nói với tôi, Phật nói người ưa thích mắng
người sẽ đoạ vào địa ngục. Đoạ địa ngục gì vậy? Là đoạ vào địa ngục mắng
người, người nào họ đều bị mắng, ngày ngày đều nghe người ta mắng, ở
trong địa ngục bao nhiêu kiếp thì bị mắng bấy nhiêu kiếp, bạn nói xem
cái thứ này nó khổ đến dường nào. Người ưa thích đánh người thì đến địa
ngục đánh nhau, phải bị đánh mấy ngàn năm, mấy vạn năm, mấy kiếp, đánh
mỗi ngày, đánh chết rồi sống lại đánh tiếp. Những chỗ này trong Ngọc
Lịch Bảo Giám đều không có, hay nói cách khác, chúng ta khởi ý niệm gì
thì phải gặp quả báo như thế đó. Bạn đối với người khác như thế nào, thì
nhất định gặp phải rất nhiều người dùng phương pháp đó đối lại với bạn.
Cảnh giới này không phải từ bên ngoài đến mà là chính bạn biến hiện ra,
đích thực ra là “duy tâm sở hiện duy thức sở biến”, là do nghiệp lực
của chính bạn biến hiện ra nên bạn phải nhận chịu, đến khi nào ý niệm
của bạn không còn thì cái địa ngục này sẽ không thấy nữa, sẽ không hiện
ra. Còn có cái ý niệm này, thí dụ là còn có cái ý niệm mắng người thì
bạn liền thấy được địa ngục, từ đây về sau không còn mắng người, không
còn cái ý niệm này, tất cả trong sạch rồi, thì địa ngục cũng không còn.
Cảnh giới này thật không thể nghĩ bàn.
Cho nên hiện tại các đồng tu đang hội tập 25 bộ kinh luận Phật giảng
về địa ngục nghiệp nhân quả báo này thành một bản, để thuận tiện cho
chúng ta đọc, không cần phải tìm nhiều. Quyển hội tập này khi xuất bản
sẽ được đặt tên là Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu. Quyển hội tập
này tương đối dày và chỉ là bao gồm những lời Phật giảng dạy về địa
ngục. Trong thời hiện đại này, giáo dục nhân quả quan trọng hơn bất cứ
thứ gì. Chúng ta xem nhiều rồi sẽ đề cao cảnh giác, vạn nhất không nên
có cái tâm bất thiện đối với người, lời nói bất thiện, hành vi bất thiện
thảy đều phải gặp quả báo rất đáng sợ, không thể nói bạn làm rồi thì
không việc gì, nhân duyên quả báo quyết định là chân thật. Trên kinh
Phật thường nói: “không phải không báo, chỉ là thời giờ chưa đến”. Hiện
tại tạo tác một số tội nghiệp nhưng quả báo chưa hiện tiền là do nguyên
nhân gì? Là do phước báo trong đời quá khứ bạn đã tu vẫn chưa hưởng hết,
hiện tại bạn hưởng thụ là phước dư của đời quá khứ đã tạo, cái phước
báo này hưởng xong rồi thì tội nghiệp tội báo của bạn liền hiện tiền,
cái đạo lý này không thể không hiểu. Cho nên hiểu rõ những chân tướng sự
thật này, chúng ta liền cảm thấy sanh tử thật đáng sợ, sanh tử quá khổ,
không còn muốn luân hồi sáu cõi nữa. Trong sáu cõi thành thật mà nói,
chính là oan oan tương báo lẫn nhau, báo ân báo oán, đòi nợ trả nợ, luôn
là không tránh khỏi những việc này, đời đời kiếp kiếp đang tạo nhân,
đời đời kiếp kiếp đang chịu quả báo, bạn nói xem vậy thì có ý nghĩa gì?
Cho dù là làm thiện, bạn có thể hưởng thụ chút ít phước báo trời người
nhưng tất nhiên thời gian hưởng thụ rất là ngắn, phước báo hưởng xong
rồi, chủng tử xấu ác từ vô lượng kiếp đến nay trong A Lại Gia thức lại
khởi hiện hành. Cho nên đích thực là bạn luôn ở trong sáu cõi, bạn không
ra khỏi sáu cõi, quyết định thời gian bạn ở trong ba đường ác dài, thời
gian ở trong ba đường thiện rất ngắn, đây là lời chân thật.
Cho nên Phật, Bồ Tát khuyên chúng ta liễu sanh tử thoát luân hồi. Để
liễu sanh tử thoát luân hồi thì trước tiên phải biết luân hồi là như thế
nào? Trên kinh Phật nói rất hay, vô minh phiền não, trần sa phiền não,
kiến tư phiền não, ba loại phiền não này là nghiệp nhân của luân hồi.
Trên Kinh Hoa Nghiêm thì không gọi là danh từ này, trên Hoa Nghiêm nói
tương đối dễ hiểu hơn là chấp trước, phân biệt, vọng tưởng. Chấp trước
chính là kiến tư phiền não, phân biệt chính là trần sa phiền não, vọng
tưởng chính là vô minh phiền não. Danh từ tuy khác nhau nhưng là cùng
một sự việc, chỉ cần bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì bạn
không cách gì thoát khỏi luân hồi, bạn nói xem sự việc này có phiền phức
không? A La Hán thoát khỏi sáu cõi luân hồi là do nguyên nhân gì vậy?
họ không có chấp trước với tất cả thế xuất thế gian pháp, A La Hán ý
niệm chấp trước đều không còn, đương nhiên sẽ không có hành động chấp
trước, cho nên họ mới siêu việt sáu cõi luân hồi. Tuy siêu việt sáu cõi
luân hồi, nhưng họ không vượt khỏi mười pháp giới. Không còn trong sáu
cõi luân hồi là pháp giới bốn thánh: Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát và
Phật. Phật của mười pháp giới không thể siêu việt, vì sao vậy? vì còn có
phân biệt, tuy là không có chấp trước. Đối với tất cả pháp thế gian và
xuất thế gian, nếu không có tâm phân biệt, không có ý niệm phân biệt,
thì siêu việt mười pháp giới. Siêu việt mười pháp giới mới gọi là pháp
giới nhất chân. Trong Pháp giới nhất chân, dần dần đem vọng tưởng đoạn
dứt, vọng tưởng là vô minh, vô minh có 41 phẩm, 41 phẩm vô minh này ở
trong pháp giới nhất chân dần dần mà đoạn trừ, đoạn tận rồi mới là cứu
cánh viên mãn Phật quả. Đây là pháp môn thông đạo mà Phật thường nói
trong kinh. Điều này rất khó khăn đói với chúng ta.
Nghiệp nhân thấp nhất của sáu cõi luân hồi chính là chấp trước, chúng ta gọi là tình chấp.
Tình chấp rất đáng sợ, nó khiến chúng ta không thể thoát khỏi luân hồi,
tình càng sâu thì càng hướng xuống đoạ lạc, tình sâu nhất là địa ngục,
hướng lên trên một tầng thì tình chấp nhạt đi một chút. Trên Kinh Hoa
Nghiêm nói được rất rõ ràng, rất tường tận, nhưng những kinh luận này
bạn lại không thường đọc. Bạn cần phải thường đọc, vì không thường đọc
thì quên mất, bị xã hội mê hoặc sẽ quên mất đi cái sự việc này, nếu
thường hay đọc, thường hay nghĩ đến thì bạn càng nghĩ càng khiếp sợ,
càng nghĩ tâm xuất ly mới có thể sanh khởi, chân thật muốn rời khỏi sáu
cõi luân hồi, chân thật muốn vãng sanh Tịnh Độ, có như vậy thì tin sâu
nguyện thiết của bạn liền sanh khởi. Tin sâu nguyệt tha thiết mới là tâm
Bồ Đề mà trên kinh đã nói. Cho nên phát tâm Bồ Đề thật không dễ dàng,
thật sự là ngay trong một vạn người niệm Phật khó có được hai đến ba
người chân thật có được tín tâm kiên định không dao động, có được tin
sâu nguyện thiết như vậy, hơn nữa còn một lòng chuyên niệm, chỉ một
phương hướng, chỉ một mục tiêu, nhất quyết không thay đổi, không luận
bất cứ người nào đến nói với họ, họ quyết định không hề dao động, nhất
quyết không thay đổi.
Tôi ngay trong lúc giảng giải cũng đã nói qua với các vị nhiều lần,
rất nhiều người phản đối bản hội tập, phê bình bản hội tập, tôi liền nói
nếu người trên toàn thế giới đều phản đối, đều phê bình thì tôi vẫn là
đọc tụng thọ trì, không hề dao động. Tại vì sao vậy? Vì quyển hội tập
này là do lão sư truyền cho tôi, tôi có lòng tin đối với thầy tôi nên
tôi nhất định không hề dao động, tôi quyết định sẽ không thay đổi. Tôi
học tập có cảm thụ, cảm thụ của tôi họ không thể nào có được, vì họ
không học qua thì họ làm sao biết được? Tâm này mới gọi là tâm thanh
tịnh. Cho nên tổ sư đại đức thường nhắc nhở chúng ta, không nên cho rằng
trong kinh luận thường nói Tịnh Tông là đạo tràng dễ hành, thì liền
khinh mạn, tín tâm, nguyện tâm đều hạ xuống thấp, trong miệng tuy là nói
tu Tịnh Độ, trên thực tế tham luyến cái thế gian năm dục sáu trần này.
Tu học với tâm trạng như vậy là chính mình tạo thành chướng ngại, không
cách gì thành tựu.
Cho nên tâm trạng bình thường của chúng ta, không thể nói cái pháp
môn này khó, cũng không thể nói nó dễ dàng. Nói dễ là so sánh trong tám
vạn bốn ngàn pháp môn thì pháp môn này là dễ, bởi vì pháp môn này không
cần phải đoạn phiền não, thế nhưng phải hàng phục phiền não, bạn không
thể hàng phục được phiền não thì nhất định không thể vãng sanh. Hàng
phục phiền não chân thật dễ hơn nhiều so với đoạn phiền não, bạn có thể
hàng phục được phiền não không để cho nó khởi tác dụng thì được rồi. Nếu
chân thật có thể khống chế được phiền não, không để phiền não phát
khởi, sức công phu của bạn hàng phục được phiền não rồi thì thời gian
càng dài, sức mạnh công phu càng lớn, đến khi không hàng phục nữa thì tự
nhiên cũng sẽ không phát khởi, thì khẳng định được vãng sanh, nắm chắc
được phần vãng sanh. Chúng ta đang làm công phu này, tuy là không hàng
phục phiền não nhưng nó cũng không khởi được tác dụng, phiền não tuyệt
nhiên vẫn chưa đoạn, việc này cần phải biết. Đây gọi là đới nghiệp vãng
sanh. Nhưng nếu bạn không nỗ lực công phu, nếu bạn không xem nhẹ thế
duyên thì bạn không làm được. Bất cứ sự việc gì trên thế gian này
cũng đều phải xem nhẹ đi, không chỉ xem nhẹ việc thế gian mà Phật sự
cũng phải xem nhẹ, đều không để ở trong lòng. Trong lòng chỉ gắn kết một
câu A Di Đà Phật
, đem Thế Giới Cực Lạc để ở trong lòng, đó gọi là
“nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai, nhất định thấy Phật”, việc này
chúng ta không thể không biết.
Vẫn còn một điểm cần phải chú ý, bạn thấy ở trên kinh này, Phật vừa
mở miệng liền gọi “Thiện nam tử, thiện nữ nhân”, trong ba kinh đều là
như vậy, không chỉ ba kinh tất cả kinh luận đại tiểu thừa, Phật vừa mở
miệng thì gọi “Thiện nam tử, thiện nữ nhân”. Câu nói này vô cùng quan
trọng, vạn nhất không thể xem thường. Đây là nói rõ cái gì? Là nói người
vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc đều là người thiện. Cho nên ngay
trong cuộc sống thường ngày chúng ta nếu không nỗ lực tu thiện thì làm
sao bạn có thể vãng sanh? Phật có nói tiêu chuẩn của người thiện là như
thế nào. Nhưng bạn xem kỹ trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật thì ba phẩm
hạ là hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm trung sanh, hạ phẩm hạ sanh, thì đều
là người ác vãng sanh về ba phẩm này. Người ác thì làm sao có thể vãng
sanh? Người ác có thể đổi ác hướng thiện thì họ có thể vãng sanh,
nếu như họ không hồi đầu thì họ không thể vãng sanh, lâm chung hồi đầu
đều có thể vãng sanh. Pháp môn này rộng lớn không thể nghĩ bàn. Chân
thật hồi đầu đó chính là chân thật sám hối, biết được ta đã làm sai rồi,
về sau không làm nữa thì là chân thật hồi đầu. Ngạn ngữ chúng ta thường
nói: “lãng tử hồi đầu vàng không đổi”, người ác khi đã quay đầu thì
chân thật là người tốt, còn tốt hơn so với người tốt thông thường, cho
nên họ có thể vãng sanh. Đây là khích lệ những người có quá khứ vô tri,
không có trí tuệ, ngu si tạo tác rất nhiều tội nghiệp nghiêm trọng,
nhưng hiện tại họ đã hiểu rõ, đã hồi đầu thì được rồi, không nên lo sợ
tội nghiệp ta tạo quá nặng thì không thể vãng sanh. Nếu như bạn có cái ý
niệm lo sợ này thì sai rồi, vì ý niệm này sẽ tạo ra chướng ngại cho
việc vãng sanh.
Phải nên biết công đức của việc sám hối là không thể nghĩ bàn. Chúng
ta có thể xem thấy điều này ở trong kinh Phật. Khi tôi học Phật, đọc
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, vua A Xà Thế và Đề Bà Đạt Đa tạo tội ngũ
nghịch thập ác. Đề Bà Đạt Đa đời đời đoạ địa ngục, nhưng tuy là đoạ địa
ngục, tuy ở trong địa ngục nhưng ông không có chịu tội, mà vẫn rất an
vui, hưởng thụ ở trong địa ngục giống như ở cõi trời Đao Lợi. Đây là do
nguyên nhân gì vậy? Vì người ông hại là Phật. Hại phàm phu thì quả báo
thật không thể lường được, vì sao vậy? Vì phàm phu có tâm sân hận, phàm
phu có tâm báo thù nên oan oan tương báo lẫn nhau. Ông đi hại Phật, Phật
không có tâm sân hận, Phật không có tâm báo thù, bạn không hại Phật thì
các Ngài khó mà thành tựu Phật quả. Phật tu hành nhẫn nhục Ba La Mật,
chúng ta nói cứ dần dần mà tu thì không biết đến ngày nào mới tu được
viên mãn, nhưng bạn đến hại các Ngài thì nhẫn nhục Ba La Mật của Phật
lập tức liền viên mãn, thành tựu Phật chứng quả viên mãn. Nên tuy là ông
ấy đã tạo ra nghiệp, dụng tâm là rất ác, nhưng đối với Phật mà nói thì
ông giúp Phật mau thành tựu Phật quả, ông ấy phải đoạ địa ngục hay
không? Phải đoạ, nhưng ông đoạ địa ngục mà không chịu tội, ông ở trong
địa ngục còn hưởng phước. Điều này có đạo lý, cái đạo lý này rất sâu,
rất vi tế. Vua A Xà Thế là phàm phu, ông giết phụ thân, hại mẫu thân,
đem mẫu thân cầm tù, lại phá hoà hợp tăng, tạo tội ngũ nghịch thập ác,
lâm chung sám hối, niệm Phật liền được vãng sanh, ông thật vãng sanh.
Có lẽ chúng ta nghĩ rằng, vua A Xà Thế tạo tội nghiệp nặng như vậy
nên vãng sanh chỉ là hạ phẩm hạ sanh. Nhưng chúng ta không thể nào ngờ
rằng Phật nói trong A Xà Thế vương Kinh là vua A Xà Thế vãng sanh thượng
phẩm trung sanh. Việc này chúng ta có nghĩ thế nào cũng nghĩ không ra.
Như vậy mới biết được, chúng ta không thể xem thường việc sám hối vãng
sanh. Nói không chừng, người tạo tội nghiệp này lâm chung sám hối vãng
sanh, như vua A Xà Thế, phẩm vị vượt qua chúng ta. Chúng ta vãng sanh có
thể không cách gì đến bậc thượng phẩm, bậc trung bậc hạ thì chúng ta
cảm thấy rất vừa lòng, rất không tệ rồi, nhưng bạn thấy đây là vãng sanh
thượng phẩm trung sanh.
Điều này thể hiện rõ, có hai cách để vãng sanh, cách thứ nhất chính
là thông thường như chúng ta làm là “phát tâm Bồ Đề một lòng chuyên
niệm”, một cách nữa là “lâm chung sám hối”. Khi lâm chung sám hối phát
nguyện thì “một niệm cho đến mười niệm được vãng sanh”. Công đức niệm
một niệm đến mười niệm của người lâm chúng sám hối đặc biệt thù thắng,
tâm họ đặc biệt dõng mãnh, người thông thường chúng ta không thể so sánh
được với họ, họ phát tâm dõng mãnh không gì bằng, bỗng chốc liền có thể
chuyển biến hết tội nghiệp từ vô lượng kiếp. Việc này cho chúng ta một
khai thị rất tốt, làm cho chúng ta không dám khinh mạn người đang tạo
tác tội nghiệp. Bạn không nên khinh khi họ, bạn không nên xem thường
những người đang tạo tác tội nghiệp. Vì sao vậy? vì nói không chừng khi
họ lâm chung sám hối vãng sanh đến thế giới Cực Lạc phẩm vị còn cao hơn
chúng ta, chúng ta vẫn không bằng họ.
Cho nên bạn không thể nào không biết về sự phát tâm dõng mãnh, chân
thiết phát tâm, chân thật hồi đầu. Trong vãng sanh truyện, thí dụ về lâm
chung sám hối, niệm Phật được vãng sanh rất nhiều. Như trong Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh ba phẩm hạ, người ác lâm chung sám hối vãng sanh vào
ba phẩm hạ là do lực sám hối của họ không được dõng mãnh, không được
chân thiết như vua A Xà Thế. Cũng đều là sám hối vãng sanh nhưng không
như nhau, sám hối vãng sanh đại đa số là ở ba phẩm hạ, thế nhưng cũng có
số ít người vẫn đến được thượng phẩm thượng sanh. Chúng ta phải tường
tận những đạo lý này. Đương nhiên, những chân tướng sự thật này chúng ta
phải tỉ mỉ mà suy gẫm, việc sám hối này với nhân duyên thiện căn của
đời quá khứ, nhất định có quan hệ rất mật thiết, quá khứ đời đời kiếp
kiếp đã tích được thiện căn sâu dầy. Tại vì sao họ tạo nghiệp vậy? Vì
ngay trong đời này không gặp được thiện duyên (duyên là quan trọng),
không thể thân cận được thiện tri thức, họ gặp được là ác tri thức, ở
bên cạnh họ thường hay bảo họ hưởng thụ năm dục sáu trần, danh vọng lợi
dưỡng, luôn là dùng những thứ này mê hoặc họ, là do nguyên nhân này.
Những việc này, nếu như không thường hay đọc kinh thì sẽ dễ bị mê
hoặc. Thế Tôn thường nói, phải thường đọc kinh, phải lý giải, hơn nữa
phải thâm giải nghĩa lý, thì chúng ta mới có thể hiểu rõ, mới không đến
nổi có mê hoặc. Tại vì sao vậy? vì nghi có thể chướng đạo, nếu như đối
với những sự việc này sanh ra nghi vấn, thì tín tâm của bạn đối với Tịnh
Độ liền bị chướng ngại, tín tâm bị chướng ngại thì không thể vãng sanh,
cho nên điểm then chốt này rất quan trọng. Ngài Đại sư Liên Trì nói rất
hay: “thỉ ác bất ngại chung thiện”, một người khi còn trẻ tạo ác, trung
niên tạo ác, khi tuổi già hối hận, lo làm thiện vẫn còn kịp, họ vẫn là
người thiện, chỉ cần họ hồi đầu. Cho nên thậm chí ác như vua A Xà Thế
nhưng khi lâm chung mới hồi đầu, mới biết sám hối vẫn còn kịp. Chỉ cần
hơi thở vẫn chưa dứt, chúng ta đem cái đạo lý này giảng rõ ràng nói
tường tận cho họ, nếu họ thoát nhiên giác ngộ, hồi đầu hướng thiện, thì
đều có thể vãng sanh.
Cho nên không thể nói con người này tạo ác quá nhiều, khi lâm chung
mặc kệ không nên để ý đến họ, vậy là sai rồi. Khi lâm chung vẫn là giúp
đỡ trợ niệm cho họ, vẫn là thường hay khuyên họ, nhắc nhở họ, họ một
niệm hồi đầu là bạn giúp một người thoát khỏi sáu cõi luân hồi, để đi
làm Phật, thì công đức này vô lượng, bất cứ việc tốt nào ở thế gian đều
không thể so sanh được với việc tốt này. Bạn có thể đưa một người đi làm
Phật, bạn ngay trong một đời này có được cơ hội đưa vài người đi vãng
sanh, thì chính bạn tương lai vãng sanh sẽ không có vấn đề gì. Những
người vãng sanh sẽ làm gì? Họ sẽ tri ân báo ân, đến khi bạn lâm chung,
họ nhất định sẽ nói với Phật A Di Đà là họ có thể đến được Thế giới Tây
Phương Cực Lạc đều là nhờ bạn giúp đỡ, họ sẽ kéo Phật A Di Đà mau đi
tiếp dẫn bạn. Đây là việc thường tình, đích thực sự việc sẽ là như vậy.
Cho nên chúng ta phải nhiệt tâm, không nên ghét bỏ người tạo ác, đến khi
họ lâm chung, chúng ta phải toàn tâm toàn lực giúp đỡ họ, thành tựu cho
họ. Chỉ cần tâm của chính chúng ta chân thành, tâm chân thành liền có
cảm ứng, chân thật có thể giúp đỡ được họ.
Tốt rồi! Thời gian hôm nay đã hết, chúng tôi chỉ giảng đến đây thôi. A Di Đà Phật!
Người dịch: Cư sĩ Vọng Tây
Biên tập: Cư sĩ Diệu Hiền
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
 
TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (Phần 1)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến