ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
Pháp Môn Niệm Phật Vote_lcapPháp Môn Niệm Phật I_voting_barPháp Môn Niệm Phật Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 Pháp Môn Niệm Phật

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Pháp Môn Niệm Phật Empty
Bài gửiTiêu đề: Pháp Môn Niệm Phật   Pháp Môn Niệm Phật Icon_minitimeWed May 25, 2011 9:59 pm

Tất cả chư Phật Như Lai, không vị nào không khuyên người cầu sinh Tịnh Độ.
Các vị đều không chút lòng riêng tư, không chút tâm thiên lệch mong
muốn chúng ta mau chóng thành Phật.
Phương pháp thù thắng nhất chính là cầu sinh Tây Phương tịnh độ, nhanh hơn so
với bất cứ pháp môn nào, thù thắng ngay trong thù thắng. Thế nhưng, thực
tế có một số người nghiệp chướng sâu nặng nên không tin tưởng. Phật Bồ
Tát cũng từ bi, tùy hỷ dạy pháp môn khác mà chúng ta thường gọi “tám vạn bốn ngàn”. Vậy “tám vạn bốn ngàn
là gì? Là do không tin tưởng pháp môn này, không tình nguyện học tập,
không muốn cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, chư Phật liền mở ra tám vạn bốn
ngàn pháp môn. Phật mở ra vô lượng pháp môn vì những người nghiệp chướng
sâu nặng.


Tường tận thông suốt đạo lý này chúng ta mới cảm nhận sự may mắn khi gặp được
pháp môn của Phật, nhất định sẽ không xả bỏ, không nghi hoặc, mà một
môn thâm nhập, tuyệt đối không động tâm. Với pháp môn khác, chúng ta có
thể tán thán nhưng không cùng học. Thiện Tài Đồng tử có năm mươi ba lần
tham học, pháp môn nào ngài cũng tham quan, cũng đều lướt qua. Thế nhưng
ngài không học theo mà chân thành niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cuối cùng
ngài cũng về được thế giới Tây Phương Cực Lạc.


“Thọ dụng cụ túc đệ thập cửu”


Phẩm kinh này giới thiệu với chúng ta từ dung mạo đoan chính trang nghiêm,
phước đức vô lượng, trí tuệ thông suốt, thần thông tự tại, tuổi thọ dài
lâu, cho đến hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của người ở thế giới Tây
phương Cực lạc. Đó là đích đến mà tất cả chúng sinh trên thế gian ngày
đêm đang mong cầu. Nếu cầu phước, cầu trí tuệ, tự tại, thọ mạng, thì thế
giới cực lạc mới được viên mãn. Chúng ta không thể cầu được ở thế giới
này. Trong tám khổ có “cầu bất đắc khổ”, sau khi đã cầu chúng
ta vẫn khổ. Người thế giới Tây Phương cực lạc không hề có ý niệm như
vậy, tất cả đều tự nhiên, đều lưu xuất từ tánh đức, cho nên thân tâm của
chánh báo thanh tịnh quang minh, y báo phước đức thù thắng, như trên đã
nói “siêu thế hy hữu”. Trong kinh, Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo, tuy nói nhưng “ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc”. Người thế gian thường hay nói “tâm nghĩ sự thành”,
nếu không chú tâm, chăm chỉ nỗ lực, sự việc không thể thành. Thế giới
Tây Phương cực lạc cũng vậy, vừa nghĩ đến thì liền thành tựu.


“Phục thứ cực lạc thế giới, sở hữu chúng sanh”

Cái “sở hữu” này ý nghĩa rất dài, phía sau kinh văn có câu “hoặc dĩ sanh, hoặc hiện sanh, hoặc đương sanh”. “Dĩ sanh” là đã sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc của Phật A Di Đà, thành Phật đã mười kiếp. “Hiện sanh” là hiện tại sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc. “Đương sanh” chính là chúng ta, hiện tại chưa đi nhưng chắc chắn sẽ đi. “Đương sanh
là sự khẳng định đương nhiên. Khi chính mình hạ quyết tâm, không chút
nghi ngờ cũng không lo nghĩ đã tạo nghiệp gì trong đời quá khứ, hiện tại
thì chỗ “đương sanh” này, chúng ta sẽ có phần. Sau khi gặp
được pháp môn, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, không nên nghĩ những thứ khác.
Trong kinh Đại thừa, đức Phật thường nói “niệm một câu Nam mô A di đà Phật tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội”. Chúng ta niệm có thể tiêu được hay không? Không thể! Khi chúng ta niệm “đau mồm rát họng chỉ uổng công”.
Vậy phải như thế nào khi niệm mới có sức mạnh lớn như vậy? Chính là
người không có chút lòng nghi hoặc, trong tâm ngoài Phật hiệu không có
bất cứ một tạp niệm nào. Niệm được như vậy sẽ tiêu hết tám mươi ức kiếp
sinh tử trọng tội. Không nên khởi vọng tưởng, thậm chí thế gian pháp,
chúng ta cũng không nghĩ đến, không nghĩ quá khứ không nghĩ hiện tại
cũng không nghĩ tương lai mà chỉ nghĩ “A Di Đà Phật”, chỉ nghĩ
kinh Vô Lượng Thọ, như vậy mới tiêu được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng
tội. Chỉ cần khởi một vọng niệm, công phu của chúng ta hoàn toàn bị phá
hỏng. Do đó phải triệt để buông bỏ, vạn duyên buông bỏ, đương sanh ngay
trong một đời này nhất định thành tựu, nhất định vãng sanh.


“Giai đắc như thị, chư diệu sắc thân, hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ minh liễu, thần thông tự tại”

Câu “giai đắc như thị, chư diệu sắc thân” là tổng thuyết. Diệu sắc thân chính là “hình mạo đoan nghiêm”.
Chúng ta đã đọc phần trước bài kinh, sinh đến thế giới Tây Phương cực
lạc, thế giới đó là hóa thân, không phải là thai sinh nên rất khó tưởng
tượng. Người thế gian luôn từ nhỏ lớn dần tuổi tác theo thời gian, mỗi
năm đều thay đổi. Trong khi đó, thế giới Tây Phương không như vậy. Thân
người ở thế giới Tây Phương hoàn toàn giống đức Phật A Di Đà, giống từ
tướng mạo thân thể đến phước đức vô lượng. Tuổi thọ ở ngay trong phước
đức, tuổi thọ là phước đức đệ nhất, là vô lượng thọ, trí tuệ thông suốt,
viên mãn.


Quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ vô cùng, tương lai vô tận, cõi này
phương khác, tất cả các pháp không gì là khó thông đạt. Kinh Hoa Nghiêm
và kinh Lăng Nghiêm cũng đã nói qua vấn đề này. Trước đây chúng tôi cũng
thường hay giảng “chư pháp sở sanh”, chư pháp là tất cả pháp thế xuất thế gian, sanh là sanh khởi. Tất cả pháp từ đâu mà ra?, đức Phật nói “do tâm hiện ra”, tâm đó là tự tánh, là chân tâm của chúng ta. Chúng ta “minh tâm kiến tánh
thì làm sao không biết được tác dụng của tâm tánh. Hư không, vũ trụ, vô
lượng vô biên tinh cầu, và tất cả chúng sanh từ đâu mà ra?, từ trong tự
tánh của chúng ta biến hiện ra. Khi minh tâm kiến tánh rồi, đương nhiên
thứ gì cũng thông suốt tường tận, không cần phải học.


Đức Phật nói “sở tri chướng”, cái sở tri chướng này đã chướng ngại chúng ta, vốn dĩ chúng ta phải biết nhưng hiện tại lại không biết. Cho nên ý nghĩa của “sở tri chướng” và “phiền não chướng
không giống nhau. Bản thân phiền não là chướng ngại, còn sở tri thì
không chướng ngại. Có loại chướng ngại chúng ta nhận biết, nhưng không
phiền não. Tất cả chúng sinh đều có “trí tuệ đức tướng Như Lai”, nhưng vì sao hiện tại chúng ta không có trí tuệ thông suốt này? Kinh Phật thường nói, các tổ sư đại đức cũng thường nói: “sở tri chướng” là do khởi tâm động niệm. Kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi rất hay: “tất cả chúng sinh có vô minh, vô minh bất giác sinh ba cõi, vậy vô minh này có từ lúc nào, do nguyên nhân gì mà ra?”. Đức Phật đáp cũng rất diệu: “vô minh chính là sở tri chướng”, “tri kiến lập tri là vô minh bổn”.
Tri kiến chính là trí tuệ thông suốt. Sai sót chính ở chúng ta muốn lập
tri. Lập tri là phân biệt, khởi tâm động niệm, liền chướng ngại trí tuệ
thông suốt.


Chư Phật Như Lai thường ở trong định, không phải ngồi xếp bằng tĩnh tọa như
người thường vẫn nghĩ. Trong định chính là tâm định, không kể đến thân,
đi đứng nằm ngồi” đều trong định, đó mới gọi là thiền định.
Định là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp
trước. Định sinh huệ, tác dụng của định chính là trí tuệ thông suốt.
Chúng ta không có trí tuệ bởi vì tâm động. Cho nên, nếu muốn cầu trí
tuệ, không khó, chúng ta chỉ cần tận lực giữ gìn tâm, không để cho cảnh
giới bên ngoài xoay chuyển, phiền não dao động. Chúng tôi thường khích
lệ các vị đồng tu bằng mười sáu chữ cần buông bỏ “tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham sân si mạn”.
Sau khi buông bỏ, chúng ta liền ở ngay trong định. Tuy định này không
sâu nhưng có thể sinh trí tuệ. Có công phu thì khi mở bất cứ kinh điển
gì, chúng ta sẽ không có chướng ngại, mà trên tinh thần “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
như kệ khai kinh đã nói, mặc dù dĩ nhiên sự hiểu của chúng ta vẫn chưa
đủ sâu, chưa đủ viên mãn. Tuy nhiên, sự hiểu đó lại chính xác, không
sai, vì khi đó, chúng ta đã có sức định.


Nếu không buông bỏ mười sáu chữ vừa nêu, một chút định cũng không có, thì
không những đức Phật giảng chúng ta sẽ không hiểu, mà chú giải của tổ sư
chúng ta xem cũng không hiểu. Sở tri chướng ở ngay đó. Tâm càng thanh
tịnh, trí tuệ càng lớn. Lời nói của cổ đức rất có đạo lý: tu hành Phật
pháp chính là một chữ “buông”. Buông bỏ, từ sơ phát tâm đến quả
vị Như Lai không hề khác biệt. Buông bỏ một phần, chúng ta liền có thể
nhìn thấu một phần, nhìn thấu là trí tuệ thông suốt. Chúng ta liền có
thể được một phần tự tại, thần thông tự tại, đều có thể có được người
của thế giới Tây Phương cực lạc, vi diệu không thể nói hết.


Chữ “đương sanh
rất vi diệu. Ngày nay, chúng ta hạ quyết tâm tu Tịnh Độ, một lòng một
dạ, đó chính là đương sanh, ngay đời này nhất định sẽ không còn luân
hồi, nhất định được sinh Tịnh Độ. Bản thân tràn đầy tín tâm, sinh đến
thế giới Tây Phương cực lạc những thứ này thảy đều có được, thậm chí còn
viên mãn. Bồ Tát Thất Địa tiếp cận viên mãn, lên trên Bát Địa, Cửu Địa,
Thập Địa Đẳng Giác đều viên mãn. Ngôi thứ năm chính là quả vị Như Lai
cứu cánh.


Lý do của việc lựa chọn pháp môn niệm Phật

Vừa rồi đến Trung Quốc, chúng tôi gặp rất nhiều vị đồng tu Phật giáo trách
móc rằng tại sao chúng tôi chỉ tuyên dương pháp môn Tịnh Độ mà không nói
đến các pháp môn khác. Họ lo lắng chẳng lẽ tương lai chỉ có Tịnh Độ,
còn các tông phái khác đều không có.


Kỳ thật họ không hiểu cách thức giảng kinh. Giảng bộ kinh nào, nhất định
phải tán thán bộ kinh đó. Chúng tôi giảng Tịnh Độ mà lại tán thán Thiền
chẳng phải làm trò cười hay sao? Đây là một nguyên tắc cơ bản. Bất cứ
tông phái nào, khi giảng giải, chúng ta phải tán thán để người nghe mới
có thể sinh tín tâm, có thể thọ dụng, y giáo phụng hành, chân thật được
lợi ích.


Trước đây, một nữ tu của Thiên Chúa Giáo cho biết cô rất thích nghe chúng tôi
giảng Mai Quế Kinh ở trường. Chúng tôi cũng đã hứa sẽ tìm thời gian
thích hợp, cố gắng giảng qua một lượt trong phòng thu rồi tặng các vị
phổ biến bên Thiên Chúa Giáo. Khi giảng Mai Quế Kinh, chúng tôi cũng tán
thán Thiên Chúa Giáo, tán thán GiêSu, không thể so sánh họ không bằng
đức Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta cần hiểu, đây là qui củ của giáo học.
Không luận giảng bộ kinh điển nào, không luận giảng pháp môn gì, nhất
định phải tán thán. Chúng ta gặp đệ tử Phật môn tu học pháp môn tông
phái khác, đều tán thán, không nên hủy báng, xem thường.


Trong “Du Già Bồ Tát giới bổn”, có một điều trọng giới, “khen mình chê người”,
dường như xếp ở điều thứ nhất. Trọng giới thứ nhất là tán thán chính
mình, hủy báng các tông phái khác. Tất cả pháp môn có trong nhà Phật
không luận Đại thừa, Tiểu thừa, tông môn giáo hạ, hiển giáo mật giáo,
kinh điển mà chúng ta y theo đều là Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Nếu hủy
báng kinh điển là báng Phật báng pháp. Có không ít người y theo pháp môn
này tu hành thành tựu, chẳng phải như vậy là báng cả tăng sao? Cho nên
có thể tán thán chính mình nhưng không được hủy báng Tam Bảo, vì hủy
báng Tam Bảo, quả báo địa ngục A Tỳ, không thể vãng sinh.


Người tu Tịnh Độ chúng ta đối với bất kỳ tông phái nào cũng đều tán thán.
Chúng ta cung kính Tam Bảo, không những tán thán Tam Bảo, mà cần tán
thán cả các tôn giáo khác. Mặc dù tôn giáo không giống nhau, nhưng họ
đều “do tâm hiện ra, do thức hiện bày”. Chúng ta và họ đồng một
gốc, đồng một nguồn cội, đồng một tự tánh, vì vậy không nên xem thường,
hủy báng. Không tường tận đạo lý này, thì việc học Phật chỉ là học
suông, Phật hiệu cũng là niệm suông, làm sao có thể thành tựu. Thích Ca
Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời, đối với rất nhiều tôn giáo khác của Ấn
Độ, Thế Tôn không hề hủy báng, không hề xem thường. Chúng ta cũng nên
theo đó mà học. Căn tính tuy không giống nhau, không luận thuộc tôn giáo
nào cũng đều khuyên người làm thiện, lánh ác.


Thời đại này là loạn thế, tai nạn triền miên, chúng ta trải qua ngày tháng
rất khổ đau. Mọi người trên toàn thế giới bất luận tôn giáo, chủng tộc,
quốc gia đều một mong cầu khẩn thiết “xã hội an định, thế giới hòa bình”.
Do đó, những năm gần đây, chúng tôi ở Singapore, Úc Châu vẫn đang tiếp
tục làm công tác đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn giáo, chủng tộc, hóa
giải hiểu lầm, xung đột, hy vọng mọi người toàn tâm toàn lực cống hiến
vì an định xã hội, thế giới hòa bình.


Chúng tôi có đưa ra tổng cương lĩnh gói gọn trong tám chữ “đối đãi bình đẳng, hòa thuận cùng sống”.
Không nên phân tôn giáo, không phân chủng tộc, không phân quốc gia,
không phân văn hóa, cũng không phân giàu nghèo sang hèn, chúng ta đều
mong cầu đối đãi bình đẳng với nhau, hòa thuận cùng sống. Ngoài ra chúng
tôi còn có năm cụm từ mười chữ “bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc”. Sau cùng tổng kết lại, chúng ta “hợp tác lẫn nhau”.
Chỉ với mấy câu như vậy, chúng tôi đi khắp nơi trên thế giới, đến đâu
cũng khuyên mọi người thực tiễn triệt để, bản thân quyết làm được, sau
đó tiến thêm một bước yêu cầu người trong đạo tràng làm được, dần dần
yêu cầu người trong thị trấn nhỏ thảy đều làm được


Chúng tôi ở Úc châu trong một trấn nhỏ chỉ có tám ngàn người đều làm thành
công, vì mỗi cá nhân đều có lòng tự trọng, đều hy vọng trấn nhỏ này trở
thành trấn mô phạm bình đẳng, đối đãi hòa thuận. Chúng tôi dự đoán
khoảng vài năm nữa, trấn nhỏ này sẽ trở nên nhất nhì thế giới về hòa
bình an định. Người dân xem người già như cha mẹ mình, xem người trẻ như
con em ruột thịt mà tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.


Xây dựng thế giới hòa bình là việc không dễ dàng. Hội nghị hòa bình của
Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Thái Lan vừa qua, sau khi tham gia, chúng tôi
cảm thấy không thực tiễn. Từ đó mới thấy, thật may mắn khi ở Toowoomba
hình thành một mô phạm hòa bình, mà người Trung Quốc gọi là kiểu mẫu. Đó
chính là mở rộng của thôn Di Đà, trấn nhỏ này đầy đủ điều kiện thiên
nhiên, cư dân bao gồm hai loại người: trí thức, đa số có trình độ văn
hóa rất cao, chiếm một phần tư nhân khẩu; ba phần tư còn lại phần lớn đã
về hưu, và người về hưu ở các nơi đến đây dưỡng lão. Do điều kiện thiên
nhiên ưu đãi nên nơi này còn gọi là trấn về hưu dưỡng lão. Cứ cuối
tuần, chúng tôi thường tổ chức buổi tiệc ấm cúng dành cho khách thập
phương tề tựu. Số lượng khách ngày càng tăng là điều đáng mừng. Mục đích
buổi tiệc nhằm giáo dục, dẫn dắt nhân dân thực tiễn đối đãi bình đẳng,
hòa thuận, cùng thực hiện bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm
sóc, hợp tác lẫn nhau. Hy vọng lãnh đạo các tôn giáo trong trấn nhỏ này,
từ dẫn đầu đến thúc đẩy để trở thành trấn nhỏ hòa bình nhất thế giới.


Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại”,
đều là đức năng tự tánh vốn đủ. Chúng ta có trí tuệ, có sức định sẽ
khai mở được trí năng này vô tận vô lượng vô biên. Mọi người đều có thể
khai mở.


“Thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc”

Tám chữ này chứa đựng muôn hình vạn vẻ. Ngày nay chúng ta có đời sống tinh
thần, đời sống vật chất không những đủ mà còn rất đầy đủ, rất phong phú,
không hề kém khuyết. Kinh nêu ra một vài ví dụ các thứ thọ dụng.


Thứ nhất là nơi ở, “cung điện”. Cung điện không có nghĩa là nơi ở của đế vương thời xưa mà đó chính là nhà ở cá nhân cùng nơi họat động đoàn thể.

Thứ hai, “phục sức” là điều kiện ăn mặc sung túc. Người thế gian ưa thích trang sức. Chư Phật Bồ tát cũng thường đeo anh lạc, gọi là “chúng bảo trang nghiêm”.
Những thứ này đều tự nhiên, không do con người thiết kế chế tạo. Thế
giới Tây Phương vốn mọi thứ đều tự nhiên, do nghĩ mà sinh ra.


Thứ ba, “hương hoa”,mười phương pháp giới tất cả chúng sinh không ai không thích hương hoa.
Người ta rất chú trọng đến vườn tược. Người giàu sang Trung quốc thời
xưa đặc biệt chú trọng đến hoàn cảnh nơi ở. Đến tham quan Trung quốc,
chúng ta sẽ thấy còn lưu giữ lại rất nhiều khu vườn với những kiến trúc
đẹp mắt ở Tô Châu, Dương Châu, Bắc Kinh. Không cần chờ đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc, “do nghĩ mà sinh”, chỉ cần chúng ta quán tưởng, thế giới Tây phương liền hiện tiền trong cuộc sống của chúng ta.


“Phan cái trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu, tất giai như niệm”

Câu nói này đã bao gồm hết tất cả vật chất đồ dùng trong cuộc sống thường
ngày của chúng ta, không thiếu thứ nào. Khi nào cần dùng, nó tự nhiên
hiện ra; khi không cần nữa, nó liền biến mất. Cho nên, đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc, vào nhà của mỗi người đều thấy sạch sẽ, bóng láng không
chút bụi trần, đồ dùng của họ cũng không cần phải cất chứa, vô cùng vi
diệu. Bởi vì tất cả chúng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có năng
lực chuyển đổi năng lượng vật chất, có thể đem năng lượng biến thành vật
chất, khi cần dùng thì thảy đều đầy đủ, khi không cần dùng thì chuyển
biến vật chất này quay trở về thành năng lượng nên không cần phải cất
chứa.


Trong kinh điển nhà Phật đã giới thiệu rất nhiều cảnh giới không thể nghĩ
bàn, được khoa học gia hiện tại chứng thực. Thế nhưng hiện tại họ không
biết dùng phương pháp gì để làm cho năng lượng và vật chất tùy tâm mà
chuyển biến. Người thế giới Tây Phương Cực Lạc sớm đã biết được. Những
năm đầu khi giảng bộ kinh này, chúng tôi đã khuyên các khoa học gia nên
đến thế giới Cực Lạc “du học”. Nếu không, kiến thức họ học được
sẽ rất có hạn. A Di Đà Phật là nhà khoa học vĩ đại nhất giữa vũ trụ
này, cho nên học khoa học thì cần đi đến thế giới Cực Lạc.


Tùy ý sở tu tất giai như niệm”,
tất cả đều do tâm nghĩ sự thành, không như thế gian đời sống gian nan
khổ sở. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, sáu cõi của chúng ta là biển khổ. Có
ba loại khổ lớn, “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. Kinh Hoa Nghiêm nói “ba cõi đều khổ”,
dục giới ba loại khổ này thảy đều đầy đủ, không ai có thể tránh khỏi
được. Người cõi trời sắc giới công phu thiền định sâu, không có “khổ khổ”, nhưng họ có “hoại khổ”, “hành khổ”, vẫn không được coi là tự tại. Đến được cõi vô sắc, ngay đến thân thể này cũng không cần, không có “hoại khổ”, nhưng họ vẫn có “hành khổ”.
Hành khổ vì cảnh giới này của họ không thể giữ được mãi. Họ có hạn chế
của thọ mạng. Cõi trời Vô Sắc giới cao nhất, trời Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ, tuổi thọ tám vạn đại kiếp. Người thông thường không ấn tượng
sâu về con số tám vạn đại kiếp, nhưng đối với người con Phật thì tương
đối dễ hiểu hơn. Trong kinh luận đức Phật dạy, thế giới này, một lần “thành, trụ, hoại, không” là một đại kiếp. Tám vạn đại kiếp là “thành, trụ, hoại, không
tám vạn lần. Thế nhưng rốt cuộc, nó vẫn là số lượng, cùng với thời
không vô tận mà so sánh, vẫn rất ngắn ngủi. Tám vạn đại kiếp cũng qua
nhanh, khi mất định lực vẫn bị đọa xuống sáu cõi luân hồi, không được
cứu cánh. “Ba cõi đều khổ”, không hề có những ngày tháng tốt
đẹp, muốn trải qua ngày tháng tốt đẹp, chúng ta hãy hướng đến, xem thế
giới Tây Phương Cực Lạc kỳ diệu dường nào.




(Trích Lục Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm thứ 19)

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT Giác Minh Duyên

Giảng tại cư sĩ Lâm Phật giáo Singapore, tháng 10- 2003







Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
 
Pháp Môn Niệm Phật
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Nguyên Nhân Nào Phật Giảng Pháp Môn Niệm Phật
» 48 pháp niệm Phật
» Yếu Chỉ Pháp Trì Danh Niệm Phật
» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT NHIẾP HẾT MỌI CĂN CƠ
» Những Lời Vàng Về Pháp Môn Niệm Phật

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến