ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Vote_lcapNgài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ I_voting_barNgài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Empty
Bài gửiTiêu đề: Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ   Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ Icon_minitimeTue Jun 07, 2011 3:34 am

Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Ðông bắc Ấn Ðộ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
“Chân tông Tịnh độ” có nghĩa là “tinh túy của giáo lý Tịnh độ”. Ðây vốn không phải là tên của một tông phái, vì nguyên ý của Ngài Shinran (Thân Loan) không phải muốn sáng lập ra một tông phái mới. Mục đích của Ngài chỉ là muốn chỉ bày cho chúng ta nội dung quan trọng chủ yếu của nền giáo lý Tịnh độ do 7 vị cao tăng Ấn Ðộ, Trung Quốc và Nhật Bổn truyền bá và phát triển. Bảy vị Cao Tăng là 7 vị Tổ của Tịnh độ tông Nhật Bổn: Tổ thứ nhất là Bồ tát Long Thọ (-250), Tổ thứ hai là Bồ tát Thế Thân (-400), Tổ thứ ba là Ðại sư Ðàm Loan (476-542), Tổ thứ tư là Ðại sư Ðạo Xước (562-645), Tổ thứ năm là Ðại sư Thiện Ðạo (613-681), Tổ thứ sáu là Hòa thượng Nguyên Tín (942-1017), Tổ thứ bảy là Thánh nhân Nguyên Không (Pháp Nhiên) (1133-1212)
Từ những kinh điển Tịnh độ và các luận trước của 7 vị cao tăng, Shinran hình thành một hệ thống giáo lý có thể giải cứu chúng sanh, đây là khởi duyên của Chân tông Tịnh độ. Tịnh độ tông sau khi được nhà học giả Thiền học nổi tiếng D.T. Suzuki gọi Chân tông Tịnh độ là Chân tông (Shin) thì ở Tây phương thường dùng tên gọi này để nhận thức Chân tông Tịnh độ. Mặc dù Suzuki là một nhà thiền học nổi tiếng, nhưng ông đã phiên dịch 4 chương đầu tác phẩm căn bản của Shinran “Giáo hành tín chứng” (Kyogyoshinsho) ra tiếng Anh, và viết bài liên quan đến Chân tông giới thiệu đến các nhân sĩ Tây phương. Từ đây chúng ta sẽ sử dụng danh từ tắt “Chân tông” này cho “Chân tông Tịnh độ”.
2
Giáo lý Phật giáo Tịnh độ thường lấy Ðức Phật A Di Ðà làm trung tâm, Ðức Phật A Di Ðà thường trụ ở cõi Tịnh độ Tây phương Cực lạc (còn gọi là “An Lạc Quốc”, “An Dưỡng Quốc”). A Di Ðà là âm dịch của Amita, Amita là tiếng cổ Ấn Ðộ (Phạn văn). A Di Ðà cũng là cách viết tắt của Amitabha (Vô lượng quang) và Amitayus (Vô lượng thọ). Vì thế nhân sĩ Tây phương rất quen thuộc với 2 danh từ tiếng Phạn Amitabha và Amitayus.
Ðức Phật A Di Ðà rất được tôn sùng tại Nhật Bổn. Người ta tôn sùng Ngài thậm chí còn hơn cả Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Là một vị Phật siêu việt thời gian không gian, Ðức Phật A Di Ðà cứu độ tất cả những ai có lòng tin chân thành xưng niệm danh hiệu của Ngài. Ðức Phật A Di Ðà dùng vô lượng hào quang nhiếp thọ và gia hộ những người có lòng tin chân thành đối với Ngài, và tiếp dẫn họ sanh về cõi Tịnh độ Cực lạc của Ngài. Hạnh nguyện cứu độ chúng sanh của Ngài được 2 vị thượng thủ Bồ tát là Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí Bồ tát phò trì. Tượng Ðức Phật A Di Ðà và 2 vị Bồ tát này (Tây phương Tam Thánh) vô cùng phổ biến tại Nhật Bổn và các nước Á Châu thạnh hành tư tưởng Tịnh độ.
Những kinh điển liên quan đến lịch sử của Ðức Phật A Di Ðà, công hạnh cứu độ chúng sanh và Tịnh độ gồm có 3 quyển (gọi tắt là Tịnh độ tam kinh). Nội dung của các bộ kinh này giải thích quá trình, phương pháp vãng sanh Tịnh độ và ở Tịnh độ tu hành chứng đắc Phật quả.
3
Trước khi giải thích nội dung của Tịnh độ tam kinh.
Đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu một vài khái niệm và giáo lý căn bản của Phật giáo, đó là nhân quả và nghiệp lực. Thuyết nhân quả thông thường đều được Bà la môn giáo ở Ấn Ðộ chấp nhận, nhưng chỉ có kiến giải của Ðức Phật mới là viên mãn. Theo lý nhân quả, tất cả sanh mệnh từ quá khứ vô thủy đến nay đều do nhân quả và nghiệp lực sai sử, sự hiện hữu của sanh mệnh cũng sẽ từ hiện tại tương tục cho đến vị lai. Do đó sanh mệnh không vì chết mà mất hẳn hoặc đình chỉ, mà sẽ chuyển sang hình thức khác trong vòng luân hồi tương tục. Sự xấu tốt của kiếp sống vị lai đều do nghiệp thiện ác ở quá khứ và hiện tại quyết định. Nói cách khác, cuộc sống hiện tại của chúng ta là kết quả của nghiệp quá khứ, những gì mà hiện nay chúng ta tạo tác sẽ ảnh hưởng đến tương lai của chúng ta. Do đây mà thấy, Phật giáo không chấp nhận chủ trương có đấng chủ tể và vạn năng sáng thế. Nhân quả của Phật giáo vì thế cũng không phải túc mệnh luận (Túc mệnh luận như người ta thường nói “tất cả do trời định”, “thiên mệnh”...). Tất cả những việc làm của chúng ta bao gồm ngôn ngữ và tư tưởng sẽ là “chủ nhân ông” tạo nên tình huống hiện tại và vị lai của chúng ta.
Hai là luân hồi, tức sự kéo dài của sanh mệnh, là sự khổ đau. Tuy chúng ta có thể chuyển sanh lên thiên giới (thiên đường và Tịnh độ là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau, không nên lẫn lộn 2 từ này), nhưng cảnh giới này không phải là cảnh giới vĩnh hằng trường cửu. Một khi công đức thiện nghiệp hết, chúng ta sẽ đọa vào trong các đường ác mà nhận lấy khổ đau. Phật giáo chính là dạy chúng ta làm như thế nào để giải thoát luân hồi sanh tử. Cảnh giới giải thoát này chính là thành Phật đạo, cũng tức là Niết bàn mà chúng ta thường nhắc đến.
Ba, Phật giáo không chỉ dạy người làm việc thiện lành, mà còn dạy chúng ta ý thức được sự tác tâm mới vô cùng quan trọng. Bất luận chúng ta nỗ lực như thế nào đi nữa để làm việc thiện lành, nhưng nếu vì chấp trước danh lợi, vì mong muốn được người ta khen thưởng mà làm viện thiện, thì lợi ích đạt được vô cùng ít ỏi, không thể tích lũy công đức để giúp cho chúng ta chứng thành Phật quả. Việc làm thiện chân chánh vì thế phải vượt ra ngoài sự chấp trước tự ngã danh lợi, nhưng muốn hoàn toàn đạt được cảnh giới này, cần phải tĩnh tọa tham thiền tinh tấn mới được.
Bốn, duyên khởi và lý “không” là khái niệm quan trọng của Phật giáo đại thừa. Nói đơn giản, tất cả vạn vật có sanh mệnh (chúng sanh) đều có mối liên hệ vô cùng mật thiết, không thể đơn độc tồn tại (nương nhân duyên sở sanh). Do đó một cái “ngã” dù không bị thời gian không gian, điều kiện và những chúng sanh khác ảnh hưởng đến thì không thể tồn tại được. Vì thế hiểu rõ quan điểm ở trên, Bồ tát (là người tinh tấn cầu Phật đạo, phát tâm từ cứu độ chúng sanh) làm tất cả việc lành mà không chấp trước vào một vật nào cả.
Cuối cùng là cần phải nhận thức công đức có được do các thiện nghiệp phát xuất từ tâm đại từ bi có thể hiển hiện thành chư Phật và cõi Phật Tịnh độ của các Ngài. Tất cả công đức này chư Phật đều ban phát cho chúng sanh. Phàm là những người được công đức này đều có thể mau chóng đắc thành Phật đạo.
4
Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðại thừa Phật giáo tin tưởng chúng sanh đều có Phật tánh. Ai tin tưởng Phật tánh của chính mình, và làm cho Phật tánh nảy nở phát triển, đó là một vị Bồ tát. Sự bắt đầu của Bồ tát đạo là vị hành giả lập lời thệ nguyện, dõng mãnh mong cầu trí huệ vô thượng (Bồ đề) và làm cho tất cả chúng sanh trong cảnh khổ đau đều được giải thoát. Phật giáo đại thừa tin rằng trong vũ trụ này có vô số Bồ tát đang hành hoặc đã chứng đắc Bồ tát đạo.
Căn cứ “Kinh Phật thuyết vô lượng thọ” (gọi tắt là Ðại Kinh), một bộ kinh đồ sộ và vô cùng quan trọng trong Tịnh độ tam kinh, Ðức Phật A Di Ðà vốn là một vị quốc vương. Sau khi gặp Ðức Phật, vua có ấn tượng vô cùng sâu sắc và xuất gia hành Bồ tát đạo. Lúc đó pháp danh của Ngài là “Pháp Tạng”, cũng có nghĩa là “Bảo tạng của Phật pháp”. Ngài dõng mãnh tìm cầu Phật đạo và lập lời thệ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. Do Bảo Tạng yêu cầu, Ðức Phật Thế Tự Tại Vương hiển thị và giải thích 210 ức cảnh giới Tịnh độ. Sau khi quan sát các cõi Phật, bèn thiền định tư duy các đặc trưng kiến lập các cõi Tịnh độ này trong thời gian 5 kiếp (kiếp là đơn vị hình dung thời gian dài không thể đo lường được). Sau 5 kiếp, Ngài đã tìm ra cõi Tịnh độ mà mình muốn thành lập và con đường giải thoát khổ đau cho chúng sanh, vì thế Ngài bèn phát 48 lời nguyện.
“Ðại kinh” nói rằng Ngài Bảo Tạng đã dùng vô số sanh mạng thực hành Bồ tát đạo trong vô lượng kiếp. Chúng ta nên biết chỉ phát nguyện suông, không có nghĩa là nguyện vọng sẽ biến thành hiện thực. Ðể cho nguyện vọng thành tựu, người phát nguyện cần phải làm các việc thiện lành và tu chứng đắc trí huệ vô thượng. Khi trí huệ đạt đến đỉnh cao, công đức và lòng từ phát triển đến mức hoàn thiện hoàn mỹ, Ngài Bảo Tạng thành Phật, hiệu là A Di Ðà. Công đức vô thượng vô biên của Ngài là y theo lời nguyện trước đã phát thệ mà hiển thị thành thân Phật quang minh vô lượng và cõi Tịnh độ trang nghiêm. Trong 48 lời nguyện, lời nguyện 18 đối với Phật giáo đồ Tịnh độ vô cùng quan trọng, vì có thể khiến cho người có lòng tin chân thành xưng niệm danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà được giải thoát. Bổn nguyện này là chiếc cầu kiến lập giữa chúng sanh và Ðức Phật A Di Ðà. Người có lòng tin xưng niệm danh hiệu Ðức Phật mà lãnh thọ công đức của Ðức Phật, có được công đức này, người này có thể vãng sanh Tịnh độ.
Chư Phật cùng với hạnh nguyện cảm hóa chúng sanh, không phải quan niệm và tư duy của phàm phu chúng ta có thể đo lường được. Bộ kinh thứ 2 trong Tịnh độ tam kinh là “Kinh Phật thuyết Quán vô lượng thọ” (gọi tắt là Quán Kinh). Bộ kinh này giới thiệu phương pháp dùng pháp nhãn của tự thân quán tưởng Ðức Phật A Di Ðà và cảnh giới Tịnh độ. Nói đơn giản, tất cả có 13 phép quán tưởng. Ðầu tiên, hành giả hướng về Tây, tập trung vào ánh mặt trời sắp lặn và ghi nhớ hình tượng này vào trong ý thức, bất luận mở mắt hay nhắm mắt không để cho hình tượng này tiêu mất. Sau khi cảnh giới này thành tựu, hành giả quán tưởng đến nước, đầu tiên quán tưởng khắp cõi Tây phương tràn ngập nước. Nước này đông lại và biến thành lưu ly. Do vì cảnh Tịnh độ do lưu ly tạo thành nên sau khi quán thành cảnh giới lưu ly, thì có thể tiếp theo quán tưởng các đặc trưng khác của Tịnh độ cùng với thân Phật A Di Ðà. “Quán Kinh” nói, phàm những người thành công quán tưởng A Di Ðà và cõi Tịnh độ Cực lạc, ác nghiệp sẽ được tiêu trừ và sau khi mạng chung nhất định sẽ được vãng sanh vào cõi Cực lạc.
5
Trong lịch sử Phật giáo Tịnh độ ở Ấn Ðộ, Trung Quốc và Nhật Bổn, niệm Phật là công hạnh quan trọng cầu vãng sanh Tịnh độ, chính là miệng niệm “Nam mô A Di Ðà Phật”. Câu này có nghĩa là “quy mạng A Di Ðà Phật” hoặc “kính lễ A Di Ðà Phật”. Quán kinh giới thiệu 13 phép quán tưởng xong bèn chia sự tu trì, thiện hạnh, công đức và ác nghiệp đã tạo của người phát nguyện cầu sanh Tịnh độ làm 9 phẩm. Ðối với những người hạ phẩm tạo các ác nghiệp, Ðức Phật Thích Ca dạy họ miệng niệm danh hiệu Phật có thể tiêu trừ ác nghiệp của tự thân. Theo lý nhân quả, những người này nhất định sẽ đọa vào địa ngục thọ khổ, nhưng nương nhờ công đức niệm Phật, các tội của họ được tiêu trừ và khiến cho họ được vãng sanh Tịnh độ.
Kinh ngắn nhất trong Tịnh độ tam kinh là “Phật thuyết A Di Ðà kinh” (gọi tắt là “Tiểu kinh “ hoặc “A Di Ðà kinh”), cũng là bộ kinh chuyên dạy chúng sanh niệm Phật. Tiểu kinh giải thích chỉ cần từ một đến 7 ngày nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật, thì chúng sanh có thể vãng sanh Tịnh độ. Nhưng điều quan trọng vẫn là lời nguyện thứ 18 của Ðức Phật, cũng chính là công hạnh do lòng tin niệm Phật khiến cho chúng sanh được vãng sanh Tịnh độ, ly khổ đắc lạc.
So sánh với pháp môn quán tưởng, pháp môn niệm Phật là phương pháp dễ hành trì nhất, không bị bất cứ người nào, hoặc thời gian, địa điểm hạn chế. Phương pháp niệm Phật tuy dễ hành, nhưng không có nghĩa là công đức và công hiệu niệm Phật sẽ nhỏ đi. Tất cả Tổ sư Tịnh độ xưa kia, từ Bồ tát Long Thọ ở Ấn Ðộ là người đầu tiên khởi xướng pháp môn niệm Phật, cho đến Ðại sư Thiện Ðạo ở Trung Quốc và Thượng nhân Pháp Nhiên Nhật Bổn đều dị khẩu đồng thanh nhấn mạnh phương pháp miệng niệm Phật này. Ngài Thiện Ðạo (613-681) đời Ðường - Trung Quốc là một trong những người tiên phong chỉnh lý và phát dương giáo lý Tịnh độ. Sau khi thành tựu pháp môn quán tưởng Ngài bèn trước tác bộ luận “Quán kinh tứ thiếp sớ” giải thích “Quán kinh”, cùng với các trước tác giải thích phương pháp tu trì và nguồn gốc của pháp môn quán tưởng. Tuy như thế, hệ thống tu trì của Ngài vẫn lấy phương pháp niệm Phật làm công hạnh tu trì chủ yếu. Các công hạnh khác, bao gồm phép quán tưởng Phật A Di Ðà, chỉ khởi tác dụng phụ giúp thêm. Sư phụ của Ngài Thiện Ðạo là Ngài Ðạo Xước (562-645) mỗi ngày niệm danh hiệu Phật 70 ngàn biến, Ngài Thiện Ðạo cũng tinh cần niệm danh hiệu Phật. Pháp môn niệm Phật của Ngài truyền bá khắp mọi nơi và sau đó truyền đến Nhật Bổn. Thượng nhân Honen (Pháp Nhiên 1133-1212) đã kế thừa pháp môn niệm Phật của Ngài Thiện Ðạo. Thượng nhân Honen thành lập Tịnh độ tông Nhật Bổn trên nền tảng giáo lý chuyên tâm xưng niệm danh hiệu Phật có thể vãng sanh Tịnh độ. Ðệ tử của Ngài ngoài những lúc theo Ngài niệm Phật, còn viết những tác phẩm xiển minh và làm sáng tỏ lời dạy của Ngài
Trước khi Ngài Honen thành lập Tịnh độ, pháp môn niệm Phật đã phổ biến lưu hành trong giới dân gian và quý tộc, đây này là công của Ðại sư Genshin (Nguyên Tín 942-1017) và các bậc Thánh khác của Tịnh độ tông như Thượng Nhân Koya (Không Dã 903-972). Ngài Genshin nổi tiếng bởi tác phẩm “Vãng sanh yếu tập” của Ngài. Trong tác phẩm này, Ngài diễn tả chi tiết cảnh giới khổ đau trong cõi ác và sự an vui ở cõi Tịnh độ Cực lạc, để khích lệ đại chúng nguyện sanh Tịnh độ. Ðồng thời Ngài còn thành lập Hội niệm Phật vào một ngày trong tháng cùng nhau niệm Phật tu hành. Ðương thời có một quý tộc tên là Fujiwara Michinaga (Ðằng Nguyên Ðạo Trưởng 966-1027), khi lâm chung tay ông nắm một sợi dây ngũ sắc mà đầu kia cột vào tay của Ðức Phật A Di Ðà. Theo “Quán kinh” và “Vãng sanh yếu tập”, phàm người lâm chung nếu có thể niệm Phật và tưởng nhớ Ðức Phật A Di Ðà thì sẽ được Ðức Phật và chư Thánh tiếp dẫn lên cõi Tây phương Tịnh độ. Sợi dây ngũ sắc được cho rằng có công năng được Ðức Phật thân lâm tiếp dẫn.
6
Khi chúng ta nhắc đến danh từ Phật giáo Tịnh độ, chúng ta không những chỉ nhắc đến Tịnh độ tông ở Nhật Bổn, mà ở Trung Quốc, Ðài Loan, Hàn Quốc, Việt Nam các nước Á Châu cùng với các khu Á kiều tụ tập ở Âu châu, Mỹ châu đều tồn tại các loại hình tông phái Tịnh độ. Các đạo trường và tự viện của các tông phái Tịnh độ này đều do Tăng sĩ hoặc Giảng sư ở địa phương đó trụ trì.
Ở Nhật Bổn, Tịnh độ tông và Chân tông Tịnh độ đã trở thành tông phái Phật giáo được quần chúng hoan nghênh nhất. Theo con số điều tra của chính phủ năm 1987, các tự viện của Phật giáo Tịnh độ tổng cộng có 30368 ngôi, tín đồ của Tịnh độ có 20446912 người. Con số này khoảng 1 phần 4 tổng số Phật giáo đồ Nhật Bổn. Thiền tông chỉ có 9481011 tín đồ. Chúng ta tuy không có cách nào biết được con số thực tế tín đồ và tự viện của các tông phái trên, nhưng từ những con số thống kê này chúng ta có thể biết được tư tưởng Tịnh độ ảnh hưởng sâu xa đối với Nhật Bổn.
Nếu bạn có cơ hội đến Tokyo (Ðông Kinh) - Nhật Bổn du lịch, trên con đường từ Tokyo đến Kyoto (Kinh Ðô) không nên bỏ qua Kamakura (Liêm Thương). Kamakura nổi tiếng là trung tâm chính trị hơn 140 năm của chính phủ Tướng quân xưa kia. Phong cảnh nổi tiếng nhất của vùng này là tượng Ðức Phật A Di Ðà ngồi, cao 15 mét, hai tay kiết ấn Di Ðà, được thành lập vào năm 1250, đôi mắt từ bi của Ngài đã nhìn suốt sự thay đổi biến thiên của thế gian. Ðối với các du khách từ các miền trên thế giới, Ngài dường như nói “Hoan nghênh đến Nhật Bổn là cõi Tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà”.
Khi bạn xuống xe từ trạm Kyoto và đi lên phía bắc một đoạn đường, bạn sẽ thấy một ngôi chùa Phật trang nghiêm. Ngôi chùa này là Tổ đình của phái Ðại Cốc, một trong 2 tông phái lớn của Chân tông Tịnh độ, người ta thường gọi ngôi chùa này là chùa Ðông Bổn Nguyện. Nếu bạn tiếp tục đi về phía tây khoảng 10 phút, bạn sẽ nhìn thấy một ngôi chùa lớn như chùa Ðông Bổn Nguyện, đây là chùa Tây Bổn Nguyện, theo số thống kê được điều tra năm 1990, các tự viện thuộc chùa Tây Bổn Nguyện gồm có 10369 ngôi, Tăng chúng giảng sư gồm có 27238 vị. Ngoài ra các miền trên toàn quốc có 9 Trường đại học và đại học ngắn hạn, bao gồm đại học Ryukoku, nơi tôi đang dạy học đều trực thuộc chùa Tây Bổn Nguyện. Các trường cao đẳng và trung đẳng thuộc chùa Tây Bổn Nguyện gồm có 35 trường. Ngoài ra chùa Tây Bổn Nguyện ở nước Mỹ có 97 ngôi chùa, Nam Mỹ có 59 ngôi và Gia Nã Ðại có 18 ngôi chùa, ở Âu châu có 3 ngôi và 1 số đạo trường niệm Phật.
7
Tổ sư của Chân tông Tịnh độ là Ngài Shinran, sanh năm 1173 tại Kyoto - Nhật Bổn, vì cha mẹ mất sớm, nên 9 tuổi xuất gia. Vào thời đại của Ngài xã hội động loạn không an, dân chúng không đường sinh sống. Lúc đó 2 bộ tộc Minamoto and Taira vì tranh chấp quyền lợi mà gây ra nội chiến, cuối cùng bộ tộc Taira thắng trận, và năm 1192 tại Kamakura, Minamoto Yoritomo xây dựng chính phủ tướng quân
Shinran sau đó đến núi Hiei (Tỷ Duệ) Thiên Thai tông tu học. Ngài ở nơi đây 20 năm chuyên cần tu học giáo lý Thiên Thai, nhưng cuối cùng phát hiện mình vẫn không có cách nào khai ngộ và tiêu trừ phiền não trong tâm. Vì thế Ngài bèn xuống núi đến Kyoto đi tìm con đường giải thoát thích hợp cho mình. Lúc đó Thượng nhân Honen lớn hơn Shinran 40 tuổi đang tuyên dương pháp môn niệm Phật cho các tầng lớp nam nữ trong xã hội. Shinran bèn xin làm môn hạ của Ngài và phát hiện pháp môn niệm Phật có thể khiến cho chúng sanh được giải thoát.
Môn phái cũ của Ngài vì lòng tật đố nên dâng sớ lên triều đình yêu cầu cấm chỉ giáo pháp niệm Phật của Honen, Honen cùng với đại đệ tử bị bức hại. Shinran năm 1207 cũng vì đó mà bị đày lên miền bắc Nhật Bổn, và sau đó kết hôn lập gia đình tại đây. Sau khi được xá tội, Ngài đi đến tỉnh Hitachi ở phía bắc Nhật Bổn, một mặt tuyên dương pháp môn niệm Phật cho dân chúng tại địa phương này, một mặt viết bộ luận đồ sộ của Chân tông “Giáo hành tín chứng”. 60 tuổi Shinran trở lại Kyoto, cho đến năm 90 tuổi qua đời, trong thời gian này tất cả tinh lực của Shinran đều dồn vào trong các trước tác của Chân tông.
Shinran sống cuộc đời như những người bình thường khác. Ngài có vợ là Eshin Ni (Huệ Tín Ni, là một thiếu nữ thuộc dòng dõi quý tộc tại Nhật Bổn) và sanh hạ 1 nam 5 nữ (1 thuyết khác 2 nam 5 nữ). Theo giới luật Phật giáo, Tăng sĩ xuất gia không được kết hôn sanh con. Do đó việc tu học Phật đạo và lập gia đình được xem như trái ngược nhau. Khi Shinran bị đày, tăng tịch của Ngài đã bị hủy bỏ mà còn bị ghép vào tội đằng tỉnh thiện tín (Theo pháp luật đương thời, tăng sĩ không bị pháp luật quản chế, vì thế nếu muốn cáo tội một tăng sĩ thì đầu tiên phải hủy bỏ tăng tịch của người đó, và ghép vào 1 tội danh.). Với tình thế như vậy, Ngài ý thức rằng mình không phải là tăng cũng không phải là tục. Vì thế Ngài kết hôn với 1 cô gái thích hợp là một việc rất tự nhiên. Với hành động kết hôn này, Shinran muốn chứng tỏ nam nữ bình thường cũng là đối tượng cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà.

Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
 
Ngài Thân Loan và chân tông Tịnh Độ
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến