ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Vote_lcapMƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU I_voting_barMƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Empty
Bài gửiTiêu đề: MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU   MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeWed Jun 08, 2011 2:09 am

Khái lược về hình thức và ý nghĩa của các bộ Mục ngưu đồ.

Nói tổng quát, 5 bộ Mục ngưu đồ đều nói về sự tu tâm. Tâm như trâu. Bản thân người tu tâm là kẻ chăn trâu. Chăn bằng giới định tuệ.

Nay nói đến hình thức và ý nghĩa của tất cả 5 bộ bằng cách chú ý đến tranh vẽ và tiêu đề nhiều hơn.


Nội dung 10 bức tranh

Tranh 1 là vị mục: chưa chăn giữ. Dưới vầng mây đen, trâu đang hung hăng tuông chạy, mình đầy dơ bẩn, dẫm đạp lúa mạ.

Tranh 2 là sơ điều: mới chế ngự. Trâu đã bị nắm dây mũi và đánh bằng roi, nhưng vầng mây đen đã biến mất.

Tranh 3 là thọ chế: chịu khuất phục. Trâu bị dơ roi, dắt đi, nhưng đầu đã sạch, vầng trăng đã xuất hiện từ xa, nhưng trong đám mây trắng.

Tranh 4 là hồi thủ: quay đầu lại. Trâu đã biết quay đầu lại với mục tử, và cổ đã sạch. Tuy vậy, mục tử vẫn ràng cột giây mũi, vầng trăng cũng xuất hiện, nhưng không có mây trắng.

Tranh 5 là thuần phục: đã thuần hóa. Trâu đã sạch 2 chân trước và nửa mình, mục tử chỉ cầm chừng dây và roi mà coi, và vầng trăng vẫn xuất hiện trong đám mây trắng.

Tranh 6 là vô ngại: hết e ngại. Mục tử ngồi chơi, thổi sáo, trâu đã sạch cả mình và 2 chân sau, nằm nhìn lại mà nghe, nhưng vầng trăng không xuất hiện trong đám mây trắng.

Tranh 7 là nhiệm vận: đã tự nhiên. Trâu đã sạch cả đuôi, ăn uống tự nhiên, mục tử thì ngủ, và vầng trăng lại xuất hiện cũng trong đám mây trắng.

Tranh 8 là tương vong: rời quên nhau. Trăng sao xuất hiện trong đám mây trắng, trâu với người không còn lệ thuộc với nhau.

Tranh 9 là độc chiếu: chỉ quán chiếu. Chỉ còn mục tử, một mình với trăng sao còn mây trắng vướng mắc chút ít.

Tranh 10 là song dẫn (mẫn): mất tất cả. Chỉ có vầng trăng lớn và sáng

1 - VỊ MỤC

Sanh nanh đầu giác tứ bào hao,
Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển diêu.
Nhất phiến hắc vân hoành cốc khẩu,
Thùy tri bộ bộ phạm giai miêu.

1 - CHƯA CHĂN

Đầu sừng hung tợn chạy kêu la
Vượt suối trèo non vạn dặm xa
Một dải mây đen giăng cửa động
Nào hay lúa mạ giẫm bừa qua.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558201
Dịch:-

1. Vô kỷ luật

Với sừng hung bạo nhô lên trên không con vật phì phò thở mạnh,
Chạy điên cuồng qua các lối mòn trên núi, càng ngày càng lạc
lõng đi xa!
Một đám mây đen giăng ngang lối vào thung lũng,
Và ai mà biết được bao nhiêu cỏ non xanh tươi đã bị giẫm nát
dưới chân cuồng dại của trâu!

- 1 -
VÔ KỶ LUẬT

Chú trâu với một cặp sừng
Nhô lên hung bạo phía từng trời cao
Phì phò miệng thở mạnh sao,
Điên khùng trâu chạy qua bao lối mòn,
Chân trâu lạc lõng trên non
Ngày càng xa mãi ai còn nhận ra!
Lối vào thung lũng xa xa
Mây đen một đám nhạt nhòa giăng ngang,
Nào ai biết được rõ ràng
Bao nhiêu đám cỏ mịn màng xanh tươi
Bị trâu hoảng chạy khắp nơi
Dưới chân dẵm nát tả tơi dại cuồng!

(Tâm Minh Ngô Tằng Dao dịch)

2 - SƠ ĐIỀU

Ngã hữu mang thằng mạch tị xuyên,
Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên.
Tùng lai liệt tính nan điều chế,
Do đắc sơn đồng tận lực khiên.

2 - MỚI DẮT

Ta có thừng gai xỏ mũi trâu
Một phen tháo chạy bị roi đau
Vốn xưa tính xấu dạy không dễ
Nhờ trẻ chăn trâu kéo lại mau.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558202
2. Kỷ Luật Bắt Đầu

Ta kiếm được một sợi dây thừng và ta xỏ dây qua mũi trâu,
Mỗi khi trâu muốn cuồng loạn chạy đi thoát đều bị ta lấy roi quất
đánh dữ dội;
Con vật kháng cự lại sự huấn luyện với tất cả sức mạnh tồn tại
trong một bản tính hoang dã và bất trị,
Nhưng kẻ chăn trâu thôn dã không bao giờ buông lỏng dây kéo và
không buông lơi cây roi lúc nào cũng sẵn sàng.

- 2 -
KỶ LUẬT BẮT ĐẦU

Kiếm ra một sợi dây thừng,
Ta bèn xỏ mũi trâu hung dữ liền,
Mỗi khi trâu muốn cuồng điên
Hung hăng thoát chạy ta bèn quất ngay
Cây roi cầm chắc trong tay
Quất trâu dữ dội roi này chẳng ngưng;
Trâu kia kháng cự vẫy vùng
Nào đâu có chịu phục tùng người chăn
Huấn luyện trâu thật khó khăn
Trâu phô sức mạnh dữ dằn từ lâu
Sẵn trong bản tính của trâu
Thú hoang bất trị rừng sâu tung hoành,
Nhưng người chăn chốn rừng xanh
Không hề buông lỏng tay mình kéo dây
Lại còn thêm chiếc roi mây
Lúc nào cũng nắm trong tay dòm chừng.
3 - THỌ CHẾ

Tiệm điều tiệm phục tức bôn trì
Độ thủy xuyên vân bộ bộ tùy
Thủ bả mang thằng vô thiểu hoãn
Mục đồng chung nhật tự vong bì.

3 - CHỊU PHÉP

Dạy dần, chịu phép hết lao đầu
Vượt nước, băng mây theo gót nhau
Tay nắm chặt dây không nới lỏng
Trẻ quên ngày mỏi mệt qua mau.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558203
3. Kiềm chế

Dần dần bị kiềm chế con vật giờ đây thuận để bị dây thừng kéo
mũi đi,
Vượt qua suối, đi dọc theo đường núi, trâu theo từng bước chân
của người dẫn dắt;
Người dắt trâu nắm chắc sợi dây thừng trong tay không bao giờ
buông lỏng ra,
Suốt cả ngày người dắt trâu luôn cảnh giác hầu như không biết
mệt là gì.

- 3 -
KIỀM CHẾ

Người chăn kiềm chế chẳng ngừng
Trâu giờ thuận để dây thừng kéo đi,
Vượt qua dòng suối thẳm kia,
Men theo đường núi rậm rì xanh tươi,
Trâu giờ đây đã thuần rồi
Đi theo từng bước của người dắt trâu,
Không hề buông lỏng chút nào
Người chăn cầm chắc dây vào trong tay,
Và rồi suốt cả một ngày
Người chăn cảnh giác, mệt này sá chi.

4 - HỒI THỦ

Nhật cửu công thâm thủy chuyển đầu,
Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu.
Sơn đồng vị khẳng toàn tương hứa,
Do bả mang thằng thả hệ lưu.

4 - QUAY ĐẦU

Lâu ngày công khó mới quay đầu
Tâm lực cuồng điên thuần dịu mau
Trẻ vẫn chưa hề tin hẳn vậy
Nên thừng giữ chặt có buông đâu.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558204
4. Quay lại

Sau nhiều ngày dài huấn luyện kết quả đã bắt đầu trông thấy và
con vật quay đầu lại,
Một bản chất rất man dại và bất trị cuối cùng đã bị phá vỡ, trâu đã
trở nên thuần tính hơn;
Nhưng người chăn dắt vẫn chưa tin cẩn vào trâu hoàn toàn,
Người chăn vẫn còn xỏ sợi dây thừng và giờ đây buộc trâu vào
một thân cây.

- 4 -
QUAY LẠI

Nhiều ngày huấn luyện trôi đi
Giờ đây kết quả tức thì thấy ngay
Trâu quay đầu lại tốt thay,
Man di bản chất lâu ngày đã quen
Lại thêm bất trị bao phen
Cuối cùng bị cải hoá liền còn đâu,
Trâu nay ngoan ngoãn cúi đầu,
Nhưng người chăn vẫn trước sau dòm chừng
Chưa hề tin cẩn tột cùng,
Mũi trâu vẫn xỏ dây thừng qua đây
Bây giờ lại buộc sợi dây
Quấn ngay vào một thân cây cận kề.

5 - TUẦN PHỤC

Lục dương âm hạ cổ khê biên,
Phóng khứ thu lai đắc tự nhiên.
Nhật mộ bích vân phương thảo địa,
Mục đồng quy khứ bất tu khiên.

5 - TUẦN PHỤC

Dưới bóng liễu xanh cạnh suối nguồn
Thả ra, bắt lại dễ dàng luôn
Mây xanh, chiều tới, đồng thơm cỏ
Trẻ trở về luôn chẳng bận chăn.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558205
5. Thuần phục

Dưới cây dương liễu xanh và bên dòng suối xưa trên núi,
Trâu được thả cho tự do dong chơi theo ý riêng;
Vào buổi chiều tối khi sương mù buông xuống cánh đồng,
Đứa trẻ quay trở về nhà với con vật lặng lẽ theo sau.

- 5 -
THUẦN PHỤC

Dưới cây dương liễu xanh rì
Bên dòng suối cũ thầm thì trên non,
Chú trâu được thả ra luôn
Dong chơi thoả thích không còn ngại chi;
Đến chiều bóng tối sắp về
Sương mù buông xuống giăng che cánh đồng,
Trẻ chăn trâu nọ thong dong
Lên đường quay lại nhà cùng chú trâu
Trâu hiền lặng lẽ theo sau
Bước chân thuần phục cúi đầu thảnh thơi.
6 - VÔ NGẠI

Lộ địa an miên ý tự như,
Bất lao tiên sách vĩnh vô câu.
Sơn đồng ổn tọa thanh tùng hạ,
Nhất khúc thăng bình lạc hữu dư.

6 - KHÔNG VƯỚNG

Ngoài trời yên giấc thảnh thơi lòng
Roi vọt không cần, chẳng nhọc công
Trẻ dưới thông xanh ngồi thoải mái
Quá vui trổi khúc nhạc vang đồng.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558206
6. Không bị ngăn trở

Trên cánh đồng xanh tươi con vật thỏa mãn nằm để thời giờ trôi
qua,
Bây giờ không cần roi vọt, cũng chẳng cần kiềm chế chi cả;
Đứa trẻ cũng vậy, ngồi nhàn rỗi dưới cây thông,
Tấu một khúc nhạc thanh bình, tràn ngập niềm vui.

- 6 -
KHÔNG CÒN NGĂN TRỞ

Giờ trên đồng cỏ xanh tươi
Chú trâu thoải mái nằm chơi an nhàn
Không còn công chuyện để làm
Mặc thời gian cứ nhẹ nhàng trôi đi,
Nay thời roi vọt cần chi
Cản ngăn, kiềm chế cần gì nữa đây;
Trẻ chăn trâu cũng rảnh tay
Ung dung ngồi dưới gốc cây thông già,
Tấu lên một khúc hoan ca
Thanh bình điệu hát, chan hoà niềm vui.

(Tâm Minh dịch)

7 - NHẬM VẬN

Liễu ngạn xuân ba tịch chiếu trung,
Đạm yên phương thảo lục nhung nhung.
Cơ xan khát ẩm tùy thời quá,
Thạch thượng sơn đồng thụy chánh nùng.

7 - THEO PHẬN

Chiều rạng sóng xuân bờ liễu buông
Khói mờ, cỏ nõn biếc thơm hương
Đói ăn, khát uống lòng tùy tiện
Trên đá trẻ chăn ngủ giấc nồng.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558207
7. Để mặc

Suối mùa xuân trong mặt trời chiều chảy thong thả dọc theo bờ
liễu giăng hàng,
Trong khung cảnh mù sương cỏ trên cánh đồng thấy có vẻ rậm
rạp thêm ra;
Khi đói trâu gặm cỏ, khi khát trâu uống nước, trong khi thời gian
êm trôi,
Trong khi đứa trẻ nằm trên đá ngủ thiếp đi hàng nhiều giờ, không
chú ý đến điều gì xảy ra chung quanh nó cả.

- 7 -
ĐỂ MẶC

Suối xuân róc rách chảy xuôi
Trời chiều bảng lảng buông lơi ánh vàng
Dọc theo bờ liễu giăng hàng,
Hiện trong khung cảnh hôn hoàng mù sương
Cánh đồng cỏ mượt thơm hương
Dường như khởi sắc nõn nường rậm thêm;
Đói lòng trâu cứ an nhiên
Ung dung gặm cỏ gần bên mặc tình,
Khi trâu khát nước dạo quanh
Tìm dòng suối mát trong lành uống thôi,
Thời gian êm ái nhẹ trôi,
Trong khi trên tảng đá nơi cạnh bờ
Trẻ kia thiếp ngủ hàng giờ
Mặc trâu lui tới nhởn nhơ một mình.

(Tâm Minh dịch)

8 - TƯƠNG VONG

Bạch ngưu thường tại bạch vân trung,
Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng.
Nguyệt thấu bạch vân vân ảnh bạch,
Bạch vân minh nguyệt nhiệm tây đông.

8 - CÙNG QUÊN

Trâu trắng thường nơi mây trắng trong
Vô tâm người với trâu tương đồng
Trăng xuyên mây trắng, mây phô trắng
Mây trắng trăng trong tây tới đông
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558208
8. Tất cả đều quên lãng

Con vật đã trắng ra giờ đây được vây quanh bởi những đám mây
trắng bạc,
Người thoải mái hoàn toàn không còn chút ưu tư, chú trâu đi theo
cũng vậy;
Những đám mây trắng bị ánh trăng xuyên chiếu rọi bóng trắng
xuống phía dướì,
Những đám mây trắng và ánh trăng sáng – theo dòng chuyển
động riêng.

- 8 -
TẤT CẢ ĐỀU QUÊN LÃNG

Giờ trâu trắng hết thân hình
Và mây trắng bạc vây quanh trâu rồi,
Người chăn cũng tự tại thôi
Tới thời thoải mái, qua hồi lo âu
Chú trâu cũng vậy, theo sau
Bước chân lững thững khác đâu chút nào;
Đám mây trắng bạc trên cao
Ánh trăng chiếu xuống rọi vào đồng xanh,
Lững lờ mây trắng trôi nhanh
Chuyển đi cùng ánh trăng thanh xuôi dòng.

(Tâm Minh dịch)

9 - ĐỘC CHIẾU

Ngưu nhi vô xứ mục đồng nhàn,
Nhất phiến cô vân bích chướng gian.
Phách thủ cao ca minh nguyệt hạ,
Quy lai do hữu nhất trùng quan.

9 – SOI RIÊNG

Vắng bóng trâu kia khiến trẻ nhàn
Một vầng mây lẻ giữa non ngàn
Vỗ tay ca hát cùng trăng sáng
Về lại vẫn còn một ải ngăn.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_200801051558209
9. Mặt trăng cô đơn

Con vật không thấy đâu nữa, và trẻ chăn trâu rảnh rỗi hoàn toàn,
Trẻ là một đám mây cô đơn bồng bềnh trôi dọc những đỉnh núi;
Vỗ nhịp tay trẻ hát một cách vui vẻ trong ánh trăng,
Nhưng phải nhớ rằng một cửa ải cuối cùng vẫn còn tồn tại ngăn
trở bước đi về nhà của nó.

- 9 -
MẶT TRĂNG CÔ ĐƠN

Trâu giờ không thấy hình dung
Trẻ chăn trâu bỗng thong dong hoàn toàn,
Tựa mây một đám an nhàn
Cô đơn trôi dọc non ngàn đỉnh cao;
Vỗ tay gõ nhịp nghêu ngao
Trẻ vui ca hát vọng vào trăng trong,
Nhớ còn một ải cuối cùng
Vẫn gây trở ngại cho từng bước đi
Cần đem đột phá tức thì
Mới mong trọn vẹn quay về nhà thôi.

(Tâm Minh dịch)

10 - SONG DẪN (MẪN)

Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung,
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không.
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý,
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng.

10 - CÙNG VẮNG

Không thấy người, trâu, bóng mịt mùng
Dưới trăng muôn vật bỗng thành không
Ý tình đích thực ai thăm hỏi
Hoa dại, cỏ thơm mọc khắp đồng.
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU 145842_2008010515582010
10. Biến đi cả hai

Cả người lẫn trâu đều đã biến đi, không để lại dấu vết gì,
Ánh trăng sáng đã trống vắng và không còn hình tượng của muôn
vật ở trong đó nữa;
Nếu có ai hỏi ý nghĩa của việc này,
Hãy nhìn hoa huệ trên cánh đồng và thảm cỏ xanh tươi thơm
ngát.

- 10 -
BIẾN ĐI CẢ HAI

Người và trâu đều biến rồi
Không lưu vết tích lại nơi chốn này,
Ánh trăng cũng trống vắng thay
Tướng hình muôn vật trong đây nhạt nhòa
Không còn hình dạng phô ra;
Nếu ai thắc mắc để mà hỏi han
Hãy nhìn hoa huệ bạt ngàn
Cỏ xanh thơm ngát tràn lan trên đồng.

* Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(chuyển dịch thơ lục bát tiếng Việt)
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU   MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU Icon_minitimeWed Jun 08, 2011 2:10 am

MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU
Trong bài luận nay, tương đối rất ngắn, xếp vào loại phụ lục, tác giả giới thiệu qua ý nghĩa của đề tài, rồi dịch mười bài thơ chăn trâu thuộc loại Thiền Tông.
Dịch giả chưa tìm được nguyên bản chữ Hán của mười bài thơ ấy. Không thể tắc trách dịch qua một bản dịch, vậy trong khi chờ đợi, hoặc giả duyên may sẽ được một độc giả cao minh nào giúp cho tài liệu ấy, tôi xin thay thế bằng một bài thơ của chính dịch giả.
T.T


Phước Châu Đại An hỏi:
- Tôi khao khát hiểu pháp Phật, đó như cái gì?
Bách Trượng đáp: Hệt như cưỡi trâu tìm trâu.
Hỏi: Hiểu rồi thì như thế nào?
Đáp: Như người cưỡi trâu về nhà.
Hỏi: Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp?
Đáp: Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu mình đừng phạm đến lúa mạ của người.
(Truyền Đăng Lục, quyển 9)
THẬP MỤC NGƯU ĐỒ là mười bức tranh chăn trâu. Tranh ra đời từ triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện tự các tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.
Tuy có nhiều bộ tranh. nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại: loại tranh Đại Thừa và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông . Trong mỗi loại, tranh vẽ sai khác hết nhau, nhưng bài tụng và bài chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.


A. TRANH ĐẠI THỪA
I.TRANH
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bức họa, trâu đen trổ trắng lần lần. trắng từ trên đỉnh đầu, lần lân quanh mình, rồi chót đuôi.
Đó là tượng trưng cho phép tu tiệm. Theo phép tu tiệm thì phải rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang ngộ; nhờ công phu, ái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy:
Nhựt cửu công thâm thỉ chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)
Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại Thưa nào cũng mở đầu bằng bức học vị mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang và khép lại: bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt được hết là cả hai: trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn:
Nhơn ngưu bật kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng
nghĩa :
Người trâu chẵng thấy biệt mù tăm
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
Um tùm cỏ nội với hoa đồng
Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa này trong cuốn Judo lnternational của Liên đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn cả bài tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyên Duy Cẩn (phần phụ lục) trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa Xá Lợi; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trương Lạc (chùa Linh Chưởng ấn hành, 1964), trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.
II. NỘI DUNG
Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên tập mục ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh Kim Cương:
“Vân hà hàng phục kỳ tâm?”
(làm sao làm chủ được cái tâm?)
Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại thừa đều nhằm vào sự “cột” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng giây lòi tói v.v... cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v.... Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa đầu: “vị mục, sơ điêu, thọ chế , hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế.
Trong giai đoạn này, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại.
Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.
Đó là bước tu chứng của hàng tiểu Thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và “nhiệm vận”.
Cần đi thêm bức nữa. khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM:
“Nhơn vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.
Đến đây mới phá được pháp chấp: pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát: diễn tả bằng hai bức họa “tương vong” và “độc chiếu”.
“Tâm cảnh song vong nãi thị chơn pháp”
Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn: Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ chỗ tất cả đều có đến nhân pháp đều không .v.v... Đó là vô dư Niết Bàn.
Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng chi để tự tại thôi (être simplement).
Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10 : song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt một trạng thái ý thức và hiện hữu mà thường chúng ta không được biết”.
(J.L.Jagarin : Le Judo Internationnal)


B. TRANH THIỀN TÔNG
I .TRANH
Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con tràu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa - ba cổ xe - là xe dê, xe nai va xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn chỉ một thừa thôi - Phật thừa - trực tiếp đưa người vào cảnh giới Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật Thiền Tông chủ trượng trực tiếp thành Phật là vậy.
Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít được thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.
Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ[1]nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.
Còn về thứ lời thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) là khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.
Riềng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là nhơn ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức cũng như về nội dung :
TRANH ĐẠI THỪA
Vị mục: chưa chăn
Sơ điều: mới chăn
Thọ chế: chịu phép
Hồi thủ: quay đầu
Tuần phục: vâng chịu
Vô ngại: không ngại
Nhiệm vận: tha hồ
Tương vong: cùng quên
Độc chiếu: soi riêng
Song dẫn: dứt cả hai (vẽ vòng tròn)
TRANH THIỀN TÔNG
Tầm ngưu: tìm trâu
Kiến tích: thấy dấu, kiến
Kiến ngưu: thấy trâu
Đắc ngưu: được trâu
Mục ngưu: chăn trâu
Kỵ ngưu quy gia: cởi trâu về nhà
Vong ngưu tồn nhơn: quên trâu còn người
Nhơn ngưu câu vong: người trâu đều quên (vẽ vòng tròn)
Phản bổn hoàn nguyên: trở về nguồn cội
Nhập triền thùy thủ: thỏng tay vào chợ



Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại trụ sở Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng, Sài gòn, tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản ánh phần nào cái thiền phong ngày trước.
Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loạt khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn do giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :
- The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First Series.
Còn một loạt tranh khác, rất cổ kính, in bằng một bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zennesh Zen bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle co – Rutland Vermont – Tokyo Japan - 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi trích in lại mười bức họa sau đây
II. NỘI DUNG
Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiên vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì.
Vô niệm: niệm tức chánh
Hữu niệm: niệm thành tà
(Pháp bữu đàn kinh)
Do đó Thiền kỵ lý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh mà loài người chúng ta hằng tự phụ.
Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này.
Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng cần những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác: tu thì tiệm mà chứng thì đốn.
THẬP MỤC NGƯU ĐỒ của Thiền tông cũng ghi lại bước tiến từng bực ấy trong thời gian và không gian.
Chúng tôi xin trình bày bước tiến ấy theo ba đoạn đường: sai tâm bắt tâm - tâm vô tâm - bình thường tâm.
1. SAI TÂM BẮT TÂM
Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1 ). Tìm ở đâu ? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường ngang, chỉ có tiếng ve kêu rộn rã đầu cành.
Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh 2), thấy thân trâu (tranh 3). Thì ra trâu có trốn đâu, tại chú không thấy đó thôi. Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi đụng mây xanh.
Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4), rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không rời mắt, quyết dõng mãnh để mà chiến thắng. Lần lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng theo hình (tranh 5). Rồi chú cưỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu lo, lòng vui không nói được (tranh 6: kỵ ngưu quy gia).
Cưỡi trâu về nhà là cưỡi tâm về chỗ ban sơ.
Người ta đi tìm tâm vì trong đôi giây phút khác thường nào đó, người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như ngờ những điều mắt thấy tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu. Gặp dấu trong kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh vắng, đêm tàn, tri óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói.
Thế là bắt được dấu, con người phăng mối đi tình tâm.
Đó là giai đoạn cầu. Ngoại cầu là “khiến Phật đi tìm Phật, tâm đi bắt tâm” (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ? Thử coi: lần lượt qua sáu bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và người chăn trâu cứ thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu ngồi hẳn trên lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng tâm ở đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cưỡi trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới nhật ra rằng târn ở nơi ta; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện liền trước mắt, và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới lạ.
Dừng bước lại: ai ngờ đâu cái việc làm hết sức là vô vi ấy lại có một thần lực nhiệm màu có thể thay đổi cả cục diện của một kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài người chúng ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút - vài phút thôi - thì khuôn mặt của thế gian này chắc không đến đỗi quá nhăn nhíu như ngày nay.
2. TÂM VÔ TÂM
Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn cảnh thì còn “xúc cảnh sanh tình”. “Tình sanh thì trí cách”. Tâm, cảnh, tình kết dính vào nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhơn duyên gây ray rứt, mâu thuẫn.
Đạo không mâu thuẫn. Thiền là “bất nhị pháp môn”, không hai mà cũng không một
Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.
Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu một cái gì, nên đi tìm ở ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không thiếu gì hết tự đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau. Ta không thiếu. Trái lại ta có dư: cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi chúng là vô minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công mà trừ nó bao giờ, mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được “con ngươi thật”của mình thì vô minh tan mất, như bóng tối tan trước vừng dương. Phật dạy trong kinh Viên Giác:
tri huyễn tức ly
ly huyễn tức giác
là vậy
Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt tổ Đạt Ma xin pháp an tâm? Tổ dạy: Ngươi đem “tâm” lại đây ta “an” cho. Sư lýnh quýnh hồi lâu, sau đành thú thiệt: Con tìm mãi mà không thấy được tâm. Tổ dạy: Thầy đã “an” rồi cái “tâm” của con đó.
Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là phá vọng không còn là một việc làm nữa - nếu không nói là một việc làm VÔ VI - mà xét cùng ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de conscience - nhận thực tánh Phật bổn lai ở trong ta.
Vậy sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp theo là giai đoạn tự tri giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng dứt niệm; dứt niệm bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng hạn. Bằng tịnh quán, con người thấy, - xin nói rõ là thấy, là kiến, là tri kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói. (tất cả bí quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) - thấy tâm không thật, thấy người không thật.
Thấy tâm không thật thì tâm dứt: trâu quên (tranh 7: vong ngưu tồn nhơn)
Thấy người không thật thì ngươi quên nốt (tranh 8: nhơn ngưu cứu vong).
Người và trâu đều quên, thì tự lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt trời huệ: tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên Giác (tranh Cool. Đó là Tâm vô Tâm. “Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật”.
Sau đây, chúng tôi xin mượn lời giáo sư Thiền học Suzuki đóng lại đoạn này :
“Đứng về mặt tâm lý, giác là vuợt ra ngoài vòng ràng buộc của bản ngã”.
“Về mặt lý luận, giác là viên dung có và không”
"Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ được cái lẽ tự tại là luân hồi, luân hồi là tự tại” .
3. BÌNH THƯỜNG TÂM
Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải qua một quan ải nữa:
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhứt trùng quan.
(Trần Thái Tôn)
Thật vậy, trong đêm cuối cùng khi đức Phật ngồi ở cội bồ đề, Ngài lần lượt xuất và nhập ba từng cảnh giới tâm linh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là ngài còn phải thức tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai, để mà trở về với ý thức bình thường. Từ trạng thái “nhơn cảnh câu bất đoạt”, Ngài phải trở về trạng thái “nhơn cảnh cân bất đoạt”[2]để trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên.
Trở về là trở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để như mọi người, “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.
* Trở về với trời đất - Trở về với trời đất với Pháp giới: đó là ý nghĩa của bức họa số 9, đề “Phản bổn hoàn nguyên”, và vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
Từ thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là không, nên Thiền khỏi phải làm gì hết, chỉ cần thấy tánh là được trở về để mà nhập cuộc.
Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên không thỉ không chung của trời đất.
Trong trật tự ấy, chúng sanh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong Pháp giới vô ngại: nước chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại, không phải tự tại ở Niết Bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự tại trong KHÔNG: Niết Bàn và phiền não chỉ là trò ảo thuật của tâm. Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải trái, tỉnh mê, đều mất nghĩa: tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một giác tánh, nên
Nhứt thiết không Niết Bàn
Không có Niết Bàn Phật
Không có Phật Niết Bàn
(Lăng già)
TẤT CẢ là MỘT. MỘT là TẤT CẢ.
Một hột bụi chứa đủ ba ngàn thế giới. Ba ngàn thế giới là một hột bụi: đều là KHÔNG.
“Có thì có tự mảy may,
"Không thì cả thế gian này cũng không.
“Nhìn xem bóng nguyệt giòng sông
"Ai hay không có có không là vầy.
( Huyền quang tôn giả )
Đó là cái thấy của hàng bồ tát “quán tự tại”, nghĩa là quán đến chỗ cùng tột và tuyệt đối của sự vật.
*Trở về với thế tục - Dưới lớp áo của thế tục, đạo sĩ trộn lẫn vào cát bụi của tình đời. Vả, cát bụi không thấy là bợn dơ nữa, mà chỉ còn là một diệu dụng, như hằng sa diệu dụng khác, của Giác Tánh Bồ Đề. Đạo sĩ không phải là Phật, là Bồ Tát, mà chỉ là một người thường, rất thường, một người vô tâm vô sự, vô tích sự, một người không là gì hết, một “vô vị chơn nhơn”
“vào rừng không khua lá
“vào nước không quậy sóng
(nhập lâm bất động thảo
nhập thủy bất lập ba )
Trở về với thế tục là trở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy: “Bình thường tâm thị đạo”.
Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần nói :
“Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình.
“Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình.
Cái muốn ấy chính là cái muốn mà đức Khổng Tử phải chờ đến bảy mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý vô ngã” :
“Thất thập tòng tâm chi sở dục”.
Chứng được đạo lý ấy thì là gì cũng hiệp đạo, “không theo không lìa, không dừng không dính, tung hoành tự tại, đâu cũng là đạo tràng” pháp nào cũng là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi cũng là Phật pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống cũng là Phật pháp.
Cho nên Tổ Huệ Trung Trần Quốc Tảng mới ung dung ngồi ăn thịt cá, khiến bà em là hoàng hậu Khâm Tư lấy làm lạ hỏi :
- Anh đi tu mà lại ăn cá thịt sao thành Phật được?
Ngài cười đáp :
Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm ra Phật, cũng như Phật chăng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng nghe Cổ Đức nói: “Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát” đó ư?
Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỒ thỏng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.
KẾT LUẬN
Để gom hết yếu lý chung của mười bức tranh chăn trâu, chúng tôi xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết luận :
Tầm ngưu tu phóng tích
Học đạo quý vô tâm
Tích tại, ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm
Nghĩa:
Tìm trâu cần phăng dấu
Học đạo cốt vô tâm
Dấu đâu thì trâu đó
Vô tâm đạo dễ tầm
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
 
MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» ĐI TU LÀ ĐI CHĂN TRÂU
» MƯỜI ĐỨC TIN CHÂN CHÁNH
» 10 ÐIỀU CẦN BIẾT KHI BỊ CHẤN THƯƠNG CỔ CHÂN
» Sáu giác quan tranh công
» Hồn Chịu Nỗi Khổ Của Trâu Cày

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến