ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Vote_lcapChữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã I_voting_barChữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Empty
Bài gửiTiêu đề: Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã   Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã Icon_minitimeTue May 24, 2011 7:33 pm

Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã ThanhTu%282%29
Người
tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi
Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
Vì vậy người xưa hay nhắc nhở chúng ta đừng nên chấp không, thế mà trong
Bát Nhã nói cái gì cũng không hết. Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
không sắc, thinh, hương, vị, xúc v.v... Trong kinh nói không mà các vị
tiền bối bảo đừng chấp không. Vậy hai chữ không đó khác nhau chỗ nào?
Đây là điều tôi muốn giảng trạch cho tất cả Tăng Ni, Phật tử nắm cho
vững, để đường tu chúng ta không bị trở ngại lại còn có thể tiến nhanh
hơn.


Muốn
biết chữ Không trong kinh Bát Nhã hay cả hệ thống Bát Nhã, trước hết
chúng ta phải nắm thật vững giáo lý nhân duyên. Người không nắm vững
giáo lý nhân duyên thì không bao giờ hiểu được chữ Không trong kinh Bát
Nhã. Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý
nhân duyên là chân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.





Trước hết chúng ta thử
xem xét các pháp trên thế gian này có pháp nào không phải nhân duyên
sanh hay không? Như chúng ta nhìn thấy ngôi chùa, vậy ngôi chùa từ đâu
mà thành? Ai cũng biết đều do nhân công, thợ, thầy, gạch, cát, đá, xi
măng v.v... hợp lại thành ngôi chùa. Chớ không bao giờ bỗng dưng nó tự
thành, phải đủ nhân, đủ duyên hội hợp mới có. Nhân duyên thì không phải
một thứ mà rất nhiều thứ tụ hợp lại thành sự vật. Cũng vậy, tất cả muôn
sự muôn vật trên thế gian này có cái nào vượt ngoài vòng nhân duyên đâu.

Gần đây các nhà khoa học
khi tìm hiểu đạo Phật, thấy rõ chủ trương các pháp do nhân duyên sinh
của đạo Phật rất phù hợp với khoa học. Bởi vì khoa học là môn học phân
tích sự vật, mà phân tích sự vật thì không vật nào tự nó có, tất cả đều
do sự kết hợp nhiều thành phần mà có. Như vậy vật nào cũng không đơn độc
một nhân một duyên có thể thành. Mà chúng rất phức tạp, do nhiều nhân
nhiều duyên tụ lại. Chúng ta mới thấy cái nhìn của đức Phật hơn hai ngàn
năm về trước rõ ràng, tường tận như thế nào.

Sự vật không tự có, không
phải ngẫu nhiên có, cũng không do ai làm ra, chỉ khi nhân duyên tụ hội
thì sự vật hiện có, thiếu duyên thì sự vật ly tán. Giáo lý Phật chỉ rõ
cho chúng ta không còn mê lầm, nghĩ rằng sự vật do người nào hoặc ngẫu
nhiên nó có. Từ cái nhà chúng ta nhìn tới cái bàn, cái ghế, vật nào
không phải từ nhân duyên sinh? Cây cối trước mắt chúng ta cũng là nhân
duyên sinh, rồi đến con người có phải từ nhân duyên sinh không? Nếu nói
đơn giản là do tinh cha huyết mẹ kết tụ lại thành thân con người. Ngày
nay với con mắt y học, người ta phân tích có bao nhiêu tỷ tế bào, phân
ra từng loại rồi phối hợp lẫn nhau. Nhờ chúng phối hợp sinh hoạt, phát
triển thì thân chúng ta còn sống, nếu chúng hư hoại thì thân này tan
nát. Như vậy tất cả sự vật trên thế gian không có cái nào thoát ngoài lý
nhân duyên.

Như xét cái đồng hồ, vật
gì là chủ thể của nó? Chúng ta không thể nói cây kim là chủ thể, số là
chủ thể. Bộ phận nào là chủ thể cũng không được, mà do đủ các bộ phận
ráp lại thành cái đồng hồ. Như vậy duyên hợp thì nó có, nếu các bộ phận
phân tán ra thì đồng hồ cũng không. Trước mắt chúng ta thấy có đồng hồ,
nhưng thực thể cái đồng hồ có hay không? Chỉ là duyên hợp tạm có chớ
không thật, vì nó không có chủ thể. Bởi không có chủ thể nên đủ duyên nó
còn, thiếu duyên nó mất, không có gì cố định hết. Như vậy làm sao nói
đồng hồ là thật được. Đã không thật thì cái gì là chủ thể của nó, chẳng
qua duyên hợp tạm có, duyên hết hoàn không.

Trong kinh A Hàm đức Phật
có dạy, người nào thấy được lý nhân duyên thì người đó thấy được pháp.
Thấy được pháp tức là thấy đạo hay thấy Phật. Qua đó chúng ta thấy tầm
quan trọng của lý nhân duyên như thế nào rồi. Cũng như vậy, con người do
nhân duyên sinh nên không chủ thể, không cố định. Muôn vật trên thế
gian này do nhân duyên sinh cũng không chủ thể, không cố định. Tuy không
cố định, không chủ thể nhưng đồng hồ vẫn có, đủ duyên thì nó hiện tiền.
Hiểu lý này rồi chúng ta mới bước qua bước thứ hai là chữ Không trong
kinh Bát Nhã.

Chúng ta đừng lầm chữ
Không trong kinh Bát Nhã là trống rỗng, không có gì hết. Không là đối
với có. Nhưng chữ Không đây là ngay nơi sự vật hiện tiền mắt thấy, tay
sờ mó được song chủ thể nó là không, không cố định. Như vậy dù mắt thấy,
tay sờ mó được mà nói là Không, đó là không chủ thể, không cố định. Bát
Nhã nói Không vì nó do nhân duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ
Không trong kinh Bát Nhã còn gọi là tánh Không. Hệ thống Bát Nhã gọi đó
là tự tánh Không. Tức là không có chủ thể, không tự tánh nhưng sự vật
vẫn có giả tướng của nó khi đủ duyên tụ hội.

Con người chúng ta cũng
do nhân duyên sinh, không có chủ thể, cố định. Vậy gọi ta được không?
Chỉ là cái ta tạm bợ, còn mất theo duyên, không có giá trị thật. Thế mà
lâu nay chúng ta cứ lầm nhận ta là thật, sự vật là thật. Nhà Phật gọi
lầm nhận đó là vô minh, là si mê. Người học Phật phải có trí tuệ sáng
suốt, thấy đúng như thật. Những gì Phật dạy chúng ta quán sát, thấu suốt
mới đem ra hướng dẫn chỉ dạy cho người khác, chớ không phải học hiểu
suông mà thấy được lẽ thật.

Chúng ta thử nghiệm lại
thân mình có phải là tạm bợ hay không? Nếu thân chắc chắn chân thật thì
không bao giờ hoại. Vì do duyên hợp nên thiếu duyên thì nó sanh ra bệnh
tật rồi đi đến bại hoại. Đó là lẽ thật, không còn gì nghi ngờ nữa. Vì
vậy chữ Không của Bát Nhã là không có thực thể, chớ không phải không ngơ
giữa có và không. Người ta cứ ngỡ cái bàn trước mắt là có, hư không
trống rỗng là không. Đó là cái có không của người đời, còn Không của Bát
Nhã là không tự tánh, không tự tánh tức là không thực thể. Vì vậy đức
Phật nói thân này vô ngã. Vì vô ngã nên không chủ thể, bởi không chủ thể
nên tùy duyên mà thành, tùy duyên mà hoại, không phải lúc nào cũng
nguyên vẹn. Đó là ý nghĩa cụ thể của đạo Phật.

Chúng ta thấy rõ ý nghĩa
của chữ Không rồi thì đối với sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được
là thật có hay thật không? Nói thật có hay thật không đều sai cả vì nó
tạm bợ, chỉ có giả tướng hiện tiền. Như vậy phải nói sao? Nói các pháp
không thật có, do duyên sinh, chỉ tạm có nên nhà Phật gọi như huyễn, như
hóa. Đến đây tôi nhớ Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở đời Lý có bài kệ:Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không.
Tạm dịch:
Có thì muôn sự có
Không thì tất cả không
Có không trăng đáy nước
Đừng mắc có không không.


Ngài Từ Đạo Hạnh diễn đạt
hình ảnh cho chúng ta thấy rất linh động. Tất cả sự vật nếu nói có thì
vật nào cũng có hết. Tại sao? Vì trên giả tướng mắt thấy, tay sờ mó
được. Còn nếu nói không thì tất cả đều không hết, vì chúng là duyên hợp
không thật. Không thật nên nói là không. Như vậy nói có và không giống
như mặt trăng dưới đáy nước. Đêm rằm ta nhìn xuống hồ nước, thấy mặt
trăng hiện dưới đáy nước. Mặt trăng ở đáy nước là thực có hay thực
không? Nếu thực có sao đưa tay vớt lên không được. Nếu thực không sao
mắt chúng ta thấy rõ ràng. Nên gọi là có mà chỉ là cái bóng, chớ không
phải không ngơ. Nhưng là bóng thì nó không thật.

Muôn sự vật ở thế gian
này cũng như bóng trăng đáy nước, nhìn thấy như có nhưng rốt cuộc không
thực thể. Cho nên có cũng như không, chỉ vì duyên hợp tạm có. Người ta
cứ ngỡ rằng những gì mắt thấy tai nghe là thực có, nhưng không ngờ chúng
là duyên hợp. Đã là duyên hợp, chúng ta đừng lầm chấp nó thật thì sẽ
không đau khổ. Đây là chỗ khó của người học Phật. Nếu thấy được lý này
thì chúng ta sẽ thấy đạo Phật hay đáo để.

Chúng ta tu khó khăn vì
chúng ta thấy cái gì cũng thật nên dễ nhiễm, dễ kẹt. Nhiễm kẹt thì sự tu
không tiến, còn thấy các pháp không thật thì chúng ta không có gì để
chấp, mà không chấp thì đường tu hết sức dễ dàng. Cho nên si mê là động
cơ chủ yếu đưa chúng ta đến chỗ sai lầm. Từ sai lầm đó khiến chúng ta
không thấy lẽ thật, rồi bị chìm đắm trong sinh tử, kiếp này kiếp nọ
không cùng. Tuy nhiên những thứ đó cũng là tướng duyên hợp không thật.
Nhưng không khéo tu chúng ta sẽ không ra khỏi nó, chỗ này rất là quan
trọng.

Tôi nhấn mạnh lại chữ
Không trong kinh Bát Nhã tức là tánh không của các pháp. Từ con người
cho tới muôn vật đều giả có, không có thực thể. Đã là giả có mà chúng ta
thấy thật thì đó là mê lầm, giả có mà nói không thì trái với lẽ thật.
Vì vậy không thể khẳng định là không. Phải biết muôn sự muôn vật trước
mắt chúng ta là tướng duyên hợp giả có.

Kinh Bát Nhã có câu: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách”.
Nghĩa là, Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu vào trí tuệ Bát Nhã,
Ngài xem thấy tất cả sự vật, tất cả pháp hay nói gọn là con người gồm
năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không có thực thể, không cố định. Khi thấy như vậy Ngài liền qua hết thảy khổ nạn.

Ngày nay chúng ta tụng
kinh Bát Nhã từ lúc mới vào chùa cho tới năm sáu mươi tuổi, biết bao
nhiêu biến? Trăm ngàn biến mà khổ ách vẫn là khổ ách. Bởi vì tụng Bát
Nhã thì tụng mà nhìn thấy thân năm uẩn thật. Nếu thấy thân năm uẩn duyên
hợp hư dối thì có ai chửi thân năm uẩn này chúng ta thấy sao? Thân năm
uẩn đã không thật thì lời chửi có thật đâu. Chẳng qua cũng là tạm bợ hư
giả thôi. Mình hư giả, người hư giả, lời nói hư giả, có gì mà khổ, có gì
mà phiền. Cho tới tất cả những thiệt thòi, khổ sở khác, nếu xét kỹ
chúng có thật không? Cũng không thật. Như vậy có gì làm chúng ta khổ sở
đâu? Chỉ cần dùng trí tuệ Bát Nhã soi thấu muôn sự vật, soi thấu lại bản
thân mình đều là duyên hợp hư giả. Thấy được như vậy thì khổ ách nào
cũng qua hết.

Như vậy chúng ta chỉ cần
tụng một câu đó cũng hết khổ rồi, đâu cần phải tụng nhiều. Chủ yếu là
biết vận dụng lời Phật dạy vào việc tu của mình. Lời Phật dạy rất chí lý
nhưng chúng ta cứ đọc thuộc lòng. Đọc lại cho Phật nghe phải không?
Chúng ta đọc kinh đúng ra là đọc cho mình nhớ và thực hành theo lời Phật
dạy. Nhưng thường Phật tử cứ nghĩ rằng đọc như vậy có phước. Đọc hai
lần phước nhiều hơn một chút. Do không biết lời Phật dạy để ứng dụng
quán chiếu lại bản thân và mọi vật chung quanh, thấu triệt được lẽ thật
của nó nên chúng ta cứ đọc cho Phật nghe hoài, còn mình thì không dính
dáng gì hết. Phật nói chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ
ách, chúng ta tụng hoài sao không qua được khổ ách? Bởi vì có chiếu kiến
đâu! Chiếu kiến là soi sáng, mà chúng ta không chịu soi sáng thì làm
sao thấu tỏ được. Đó là lầm lẫn của chúng ta.

Đức Phật dạy thân này được kết hợp từ năm uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, hành uẩn, tưởng uẩn, thức uẩn. Sắc uẩn là tứ đại đất nước gió lửa hợp lại. Thọ uẩn
là những cảm giác của chúng ta như đang nóng có ngọn gió thổi qua nghe
mát, cảm giác ấy gọi là thọ. Lưỡi chúng ta nếm một món ăn nghe ngọt,
nghe đắng v.v... cảm giác ấy là thọ. Mắt chúng ta nhìn thấy người thấy
vật, nhận ra đẹp xấu. Thân xúc chạm sanh thích hoặc chán v.v... Đó là
cảm giác của thọ. Sáu căn tiếp xúc sáu trần có cảm giác khổ vui, không
khổ không vui. Đó gọi là thọ. Tưởng uẩn là tâm mình tưởng tượng việc quá khứ vị lai. Hành là suy tư, những ý niệm nhẹ nhàng tế nhị. Có chỗ nói hành cũng là ý chí. ý chí vươn lên hay ý chí mạnh mẽ. Thức uẩn, phân biệt cái này tốt, cái kia xấu, cái này phải, cái kia quấy v.v...

Như vậy thân chúng ta có
năm phần. Một phần thuộc về sắc chất, bốn phần kia thuộc về tinh thần.
Có chỗ khác lại chia thân này do bốn thứ hợp lại là sắc. Sắc đó gồm bốn
thứ đất nước gió lửa. Phần tinh thần bốn thứ: thọ, tưởng, hành, thức.
Hai thứ cộng lại thành tám thứ đều nhau.

Tóm lại, thân này từ vật
chất cho đến tinh thần đều do duyên hợp, không có gì cố định. Xưa Thiền
sư Lương Giới, Tổ tông Tào Động, lúc mới cạo tóc vào chùa, đọc kinh Bát
Nhã, Ngài thấy kinh nói: "Vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp", Ngài bạch với thầy:

- Con có mắt tai mũi lưỡi thân ý, nhưng sao trong kinh nói không có. Nghĩa này thế nào?

Vị thầy lắc đầu bảo Ngài
đi tìm học chỗ khác, vì thầy giải nghĩa không nổi. Người học đạo thấy
kinh nói sao là hay như vậy, không thắc mắc tìm hiểu nghĩa lý thì chúng
ta không tiến bộ được. Ngài Lương Giới đọc kinh không hiểu liền sinh
nghi nên Ngài phăng tìm cho ra. Sau này ngộ đạo Ngài mới thấy được lý
chân thật của Phật dạy. Tất cả lời Phật dạy không có câu nào, lời nào là
vô ý vô nghĩa, tất cả đều chỉ lẽ thật cho chúng ta. Nhưng vì trình độ
thấp nên chúng ta không nắm vững thành ra cứ mê muội mãi.

Trong kinh Bát Nhã có đoạn: "Tướng không của các pháp không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt v.v..."
cho tới không mắt tai mũi lưỡi thân ý, rồi không cả sắc thinh hương vị
xúc pháp v.v... tất cả đều không. Như vậy tánh Không là thực thể không
của các pháp. Trên phương diện không thực thể thì không có pháp gì có
thật cả, nên nói không tất cả. Ngũ uẩn không, thập nhị xứ không, thập
bát giới không v.v...

Tới đoạn sau “vô vô minh tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc”.
Nghĩa là tất cả pháp như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Năm uẩn
là chỉ thân này, mười hai xứ tức là sáu căn và sáu trần, mười tám giới
là căn trần thức cộng lại là mười tám. Vậy thì thân này, tâm thức này và
trần cảnh này trên tánh Không đều không có, không thực thể. Về thế tục
đế, những thứ này không thật có.

Còn như pháp Thập Nhị
Nhân Duyên, Tứ Đế lẽ ra nhất định phải có. Vì Phật nói pháp Tứ Đế là
chân lý, không thể sai chạy, pháp nhân duyên cũng chân lý, không thể sai
chạy được. Nhưng tại sao kinh Bát Nhã nói cũng không luôn, như vậy
chúng ta tu cái gì? Điểm này có nhiều người thắc mắc. Không khổ tập diệt
đạo, không vô minh và không hết vô minh v.v... thì chúng ta tu làm sao
đây?

Tôi thường hay nhắc, pháp
của Phật dạy là phương thuốc trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có
bệnh gì Phật có thứ thuốc ấy. Vậy nếu bệnh không thật thì thuốc có thật
không? Thân ngũ uẩn này không thật tức là bệnh không thật. Thuốc là để
trị bệnh, bệnh đã không thật thì thuốc làm gì có thật. Rõ ràng pháp của
Phật dạy chỉ là phương tiện trị bệnh cho chúng sanh. Nếu chúng sanh hết
bệnh thì thuốc cũng không dùng. Chúng sanh không thực thể thì thuốc cũng
không thực thể.

Người đời thường nghĩ lời
phàm tục không thật, còn lời Phật dạy là chân lý, là thật. Nhưng sự
thật Phật chỉ tùy theo bệnh của chúng sanh mà dạy, giúp họ giải trừ được
căn bệnh của mình, chớ ngôn ngữ ấy cũng không thật. Cho nên nói kinh
điển như ngón tay chỉ mặt trăng hay chiếc bè đưa người qua sông v.v...
Hiểu như vậy chúng ta mới không nghi. Tất cả pháp thế gian (tục đế) và
pháp xuất thế gian (chân đế) đều không có thực thể, chỉ là giả tướng tạm
bợ, đối bệnh cho thuốc thôi. Thấy rõ như vậy nên không chấp, sẽ đi tới
chỗ cứu kính Niết Bàn, không còn mê lầm nữa.

Thấy được chữ Không của
Bát Nhã rồi thì chúng ta dễ tu. Bởi vì chúng ta đang mắc bệnh chấp
không. Nói tất cả pháp không có chủ thể liền chấp không ngơ. Nếu ai chấp
không ngơ là lầm, bởi sự vật đang có giả tướng hiện tiền làm sao nói
không được. Cho nên chúng ta phải hiểu rõ, Không là không chủ thể, không
cố định, chớ lầm là không ngơ. Hiểu như vậy chúng ta sẽ không còn chấp
nữa.

Tất cả sự vật đến với ta,
ta không chấp thì dễ tu biết mấy. Mình có phải khổ sở để dẹp nóng giận,
dẹp phiền não không? Sở dĩ chúng ta phiền não, chúng ta nóng giận là vì
chúng ta chấp nó thật. Nếu biết rõ nó không thật, chỉ tạm bợ do duyên
hợp thì có gì mà chấp. Do không chấp nên thảnh thơi tự tại đi giữa cuộc
đời mà chúng ta không dính mắc gì cả.

Như vậy Phật độ chúng ta hết khổ, hay chúng ta dùng trí tuệ thấy muôn sự vật xảy đến với mình không thật, liền vượt qua các khổ. Nỗi khổ không ai cứu ta được mà do ta nhận ra chân tướng của nó không thật thì có gì làm ta phiền hà, khổ sở nữa!
Thấy tường tận đạo lý thì không còn chấp. Nên nhớ chấp là gốc từ si mê,
là nhân của đau khổ. Nhờ trí tuệ sáng không chấp nên đau khổ cũng không
còn. Tụng một bài kinh Bát Nhã mà thấu triệt rồi thì chúng ta tự tại đi
trong cuộc đời. Đó là điều chắc chắn vậy.

Nhưng sẽ có người nói thế này, Phật dạy các pháp hư giả tạm bợ như kinh Kim Cang nói: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh".
Nếu mọi thứ đều tạm bợ huyễn hóa hết thì không cần làm gì nữa. Cuộc đời
cứ thả trôi thì xã hội sẽ ra sao? Đây là nghi vấn của nhiều người hiện
nay. Thật ra người tu Phật phải có đủ hai mặt: Một là trí tuệ tức trí
Bát Nhã, hai là từ bi.

Chúng ta quán sát thấy rõ
tánh các pháp là không, do duyên hợp tạm có, thấy tường tận như vậy là
chúng ta có trí tuệ Bát Nhã. Nhưng giả sử cạnh ta có người đói khổ,
chúng ta cũng bỏ mặc chỉ ngồi cười thôi, không làm gì hết, như vậy trở
thành khô khan tiêu cực. Cho nên phải phát tâm từ bi. Phật dạy có trí
tuệ mà không có từ bi là càn tuệ tức trí tuệ khô. Vì vậy trí tuệ phải có
từ bi thì trí tuệ ấy mới tươi nhuần. Còn từ bi mà thiếu trí tuệ thì gọi
là từ bi mù, nên chúng ta tu Phật phải có đủ từ bi và trí tuệ.

Bởi vì có trí tuệ rồi
chẳng lẽ ngồi không, ai khổ mặc họ không cần biết đến? Như vậy là ích
kỷ, không có lợi ích gì cả. Cho nên người tu phải phát tâm từ bi, chúng
sinh tuy hư giả nhưng lại không biết hư giả. Vì vậy họ khổ, chúng ta
phải thương, phải cứu họ, làm cho họ hết khổ. Như vậy nhờ trí tuệ phá
kiến chấp sai lầm, phá ngu muội tăm tối. Nhờ lòng từ bi thương người mê
lầm, ta chỉ cho họ thấy được lẽ thật, không còn chấp, không còn đau khổ
nữa. Đó mới gọi là làm tròn bổn phận người tu.

Vì vậy trí tuệ và từ bi
phải nhịp nhàng theo nhau. Người tu Phật dù bậc thượng hay bậc hạ cũng
phải đồng thời huân tập hai phương diện đó. Phải có đầy đủ trí tuệ tức
trí Bát Nhã và từ bi để độ chúng sanh. Không vị Phật nào chỉ có trí tuệ
mà thiếu từ bi. Hiểu như vậy chúng ta mới sẵn sàng lăn vào cuộc đời để
cứu khổ, để đánh thức những người mê muội. Không nên nói thân giả, cảnh
giả, khổ cũng không thật, có gì đâu lo. Thiên hạ đói cũng là chuyện giả
thôi, có chi phải bận lòng rồi ngồi đó không làm gì hết.

Nên trong kinh Phật dạy
phước và huệ, cả hai phải song hành như nhau, giống con chim có hai
cánh. Chim muốn bay được phải đủ đôi cánh, nếu chích đi một cánh thì
chim bay không được. Người tu cũng vậy, phải có trí tuệ để thấy tường
tận lẽ thật của cuộc đời và có lòng từ bi để san sớt, chia sẻ những nỗi
khổ của chúng sanh. Đó mới là người tu Phật chân chính.

Mong tất cả quý vị nghe
suy ngẫm và ứng dụng giáo pháp Phật dạy vào đời sống tu tập của mình.
Nếu ứng dụng được sẽ thấy giá trị cao siêu của Phật pháp, bằng ngược lại
chỉ hiểu suông, không thực hành gì cả thì không bao giờ thấy được sự
mầu nhiệm của đạo Phật. Và như vậy chúng ta không xứng đáng gọi là đệ tử
của đức Phật. Tất cả hãy ghi nhớ và cố gắng nỗ lực thực hành để có niềm
vui chân thật ngay trong hiện đời.

CHỮ “KHÔNG” TRONG BÀI KINH BÁT NHÃ
H.T THÍCH THANH TỪ









Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
 
Chữ KHÔNG Trong Bài Kinh Bát Nhã
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Trong Lúc Sắp Lâm Chung Không Giữ Được Chánh Niệm Có Được Vãng Sanh Không?
» HÃY ĐEO KÍNH CHỐNG NẮNG NGAY BÊN TRONG ĐÔI MẮT CỦA CHÚNG TA
» Kính áp tròng giúp người mù thấy lại ánh sáng
» Quý trọng Kinh Giảng - Chuyện bên Thầy - Phật Giáo Hòa Hảo
» Trong 49 Ngày Liên Tục Nghe và Tụng Kinh Này - Ma Quỷ Khiếp Sợ

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến