21.- Ông Trần Phong
Sắc tại chợ Vũng Gù (bây giờ gọi là Long An). Ông trường chay lúc 10 tuổi và
thờ Tam giáo, Nho, Thích, Đạo. Vào khoảng năm 1920, ông làm giáo học dạy chữ
Nho tại trường tỉnh Long An. Ông xem kinh Đại tạng gần 30 năm mới gặp pháp môn
Tịnh độ. Lúc đó ông trên 50 tuổi và bắt đầu tu theo pháp môn này. Ông có viết
quyển Lão Nhơn Đắc Độ và dịch quyển Tây Quy Trực Chỉ của ông Châu an Sỹ. Cơn
lâm chung, ông biết trước ngày về Tây phương, do đó ông có làm bài kệ khuyên
người tu Tịnh độ (xem Tây Quy Trực Chỉ).
22.- Vào khoảng năm
1958, một cô giáo ở chợ Lớn 19 tuổi, quy y với vị Hòa Thượng Thích Khánh Anh
(về sau Hòa thượng được làm pháp chủ hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt). Cô giáo
được đặt pháp danh là Diệu Tâm, cô ăn chay trường, nuôi mẹ góa, sớm chiều công
phu niệm Phật. Ngày 14 và 30 cô thường đến chùa lạy sám hối. Đến năm 21 tuổi bị
bệnh cô nhờ rước thầy của cô đến tụng niệm. Đến giờ lâm chung, cô bảo đỡ ngồi
dậy vì Quan Âm Bồ Tát đến rước. Lúc ấy hào quang sáng rực trên nóc nhà. Lối xóm
tưởng nhà cô giáo cháy, chạy tới chữa lửa.
23.- Ông chủ Thìn làm
nghề trồng rẫy ở An Hội quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Năm 1927 ông bắt đầu tu
theo pháp môn Tịnh độ. Đến năm 1930, ông biết trước ngày giờ quy Tây nên làm
saün một cái bia ghi ngày tháng như vầy: ỏõNgày 14 rạng mặt rằm tháng 2 năm
1930õõ Đồng thời ông ra nghĩa địa chôn saün một cái lu, đến ngày lâm chung, ông
tụng kinh niệm Phật trước bàn Phật rồi đến nghĩa địa xuống lu ngồi niệm Phật
lớn vài tiếng rồi tắt thở.
24.- Năm 1890, có một ông
thầy thuốc ở tỉnh Gia Định. Ông thường hay làm phước, nhứt là thí thuốc. đi đâu
ông cũng mang một cái túi dùng để lượm miểng chai, và một cái chày để đóng
những cây lồi lên mặt đất làm cản trở lối đi. Năm sau cùng, ông tu theo pháp
môn Tịnh độ. Ông biết ngày giờ chết trước ba tháng. Ba ngày trước khi chết, ông
ngồi xếp bằng và niệm Phật trước bàn Phật. Mỗi ngày chỉ ăn vài chén cháo trắng.
Đến 12 giờ ngày cuối cùng, ông tắt thở.