ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Vote_lcapTU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA I_voting_barTU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 TU MAU KẺO TRỄ VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Empty
Bài gửiTiêu đề: TU MAU KẺO TRỄ VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA   TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Icon_minitimeSat May 28, 2011 11:13 am

Nói đến chữ tu, có người lầm tưởng rằng phải bỏ nhà, bỏ
cửa, bỏ vợ con để tìm nơi non cao thanh vắng, hoặc ở chùa, ở am mới gọi
là tu. Không phải như thế đâu, tu có nghĩa là sửa đổi, trau dồi. Sửa là
sửa hư, sửa sai, sửa lạc lầm, sửa xấu thành tốt, sửa dữ thành hiền, tà
vạy thành ngay thẳng, tối tăm thành sáng suốt, si mê thành giác ngộ,
phàm phu thành thánh hiền, chúng sanh thành Phật, sanh-tử thành
Niết-Bàn.
<blockquote>TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Phat-001-adida-large</blockquote>

Tu là gì?

Đổi là đổi cũ thành mới, cho tốt, cho đẹp, cho hay. Còn
trau dồi là trau dồi các đức tánh tốt, các hạnh lành và hạnh thanh tịnh
(không ô nhiễm) cho được tốt đẹp thêm lên.

Đã rõ chữ tu rồi, vậy tu rất dễ, bất luận già trẻ, bé
lớn gì, ai tu cũng được hết, miễn biết sửa đổi trau dồi tâm tánh là tu,
và xuất gia, hay là ở tại gia gì cũng đều tu được cả.

Tu như vậy không khó và ta tu càng sớm càng hay. Khi ta
cương quyết chọn con đường tu hành rồi thì phải lo trau tâm, sửa tánh bề
trong chớ không phải tu ở bề ngoài.

Thế nào gọi là tu bề trong?

Là diệt lòng tham vọng ngu si, sân hận, mưu sâu kế độc,
ích kỷ, vụ lợi, chấp nhơn, chấp ngã, tự ái, tự kiêu, để cho lòng từ bi
của ta được nảy nở, trí huệ được mở mang.

Mỗi khi ta làm quấy (thân nghiệp), nói quấy (khẩu
nghiệp) và nghĩ quấy (ý nghiệp), thì lương tâm ta hổ thẹn, lập tức ta
phải sửa sai, ở ngay, nói thật liền, đó là tu.

Thấy người lâm vào cảnh nghèo đói, ốm đau, hoạn nạn, ta không thể làm ngơ, mau mau giúp đỡ, đó là tu.

Nhưng tu phải hành, chớ tu mà không hành thì chỉ tu ở
đầu môi chót lưỡi mà thôi, ba nghiệp: thân, khẩu, ý vẫn còn đó. Vậy tu
và hành phải đi đôi không thể thiếu một được.

Có câu:

Tu không hành như buồm không gió,
Tu phải hành, chớ có đơn sai.
Tu hành cần được cả hai,
Trong hai thiếu một không xài vào đâu.

Vậy từ nay chúng ta hãy cố gắng và quyết định một hướng đi, tạo cho mình một nghị lực bỏ ác làm lành.

Ta nên nhận ngay bây giờ, là cần phải niệm Phật với một
lòng chí thành chí thiết. Tâm trí lúc nào cũng yên lặng, gạt bỏ những tư
tưởng thế gian (tham, giận, si, mê, oán, ghét, mừng vui, luyến tiếc
v.v…) mà chỉ còn nghĩ đến Đức Phật A-Di-Đà trong tâm mình, trước mặt
mình. Được như thế, tức là ta đã sửa soạn được thân tâm đến mức có thể
hưởng thụ được sự cảm ứng của Phật và chắc chắn sẽ được tiếp dẫn sang
Cực-Lạc thế giới của Ngài trong cơn lâm chung.

Thế nào gọi là tu bề ngoài?

Là chỉ biết cúng vái, lễ bái, cầu khẩn, gõ mõ, tụng kinh vang rân, mà không hiểu nghĩa lý.

Tu như vậy, chỉ có ích trong lúc tụng niệm đó mà thôi,
vì trong khi còn theo tiếng mõ, tiếng chuông để tụng niệm, thì ba nghiệp
(thân, khẩu, ý) chỉ vắng lặng trong lúc ấy. Đến chừng buông mõ bỏ
chuông ra rồi, thì ba nghiệp lại dấy lên, tật hư thói xói đâu còn đó, ra
khỏi Phật đài là miệng chửi rủa vang rân, cho vay ăn lời cắt cổ và v.v…


Có câu: Khán kinh giả minh Phật chi lý.
Nghĩa là: xem kinh để hiểu lý kinh. Hiểu lý kinh mới hành theo kinh
được. Vậy tụng đọc mà không hiểu lý kinh, thì làm sao biết để trau dồi
tâm tánh. Không lẽ ta tụng kinh để cho Phật nghe.

Kệ kinh nhiều kẻ đọc suông,
Lý kinh không hiểu như luồng gió qua.

Vậy tu suông bề ngoài chớ không lo trau tâm dưỡng tánh
bề trong, thì chẳng khác nào một món đồ bằng sắt bị sét đã lâu, mà không
lau chùi bằng giấy nhám cho thật sạch, lại cứ để y như vậy, sơn phết
chồng lên. Một ít lâu sét bên trong ăn phủng ra ngoài, chẳng những món
đồ hư hại mà lớp sơn cũng không còn.

Bởi thế gian quá chú trọng bề ngoài mà không lo chùi
lau, sửa chữa tâm tánh, ăn năn sửa đổi những lỗi lầm, để thực hành hạnh
Từ-Bi-Hỉ-Xả, vô ngã, vị tha của Đức Phật, thì cho có cố công tụng niệm
cho đến mãn đời đi nữa, cũng không sao thấy Phật được. Chẳng khác nào
bệnh ở trong ngũ tạng mà không lo điều trị, lại lo sơn phết màu mè. Tu
hành bên ngoài thật là tai hại. (1)

Chú thích: (1) Ở đây, tôi chỉ nói những người tu
suông bề ngoài, chớ tôi không dám quơ đũa cả nắm, vì cũng có nhiều vị
rất đúng đắn cả trong lẫn ngoài, rất đáng cho chúng ta kính phục.


Tu lâu không kiến Như-Lai,
Bởi tu cửa miệng chẳng quày tu tâm.

Vả lại, phần nhiều người đời nay lễ bái, tụng kinh, niệm
Phật để cầu xin Phật, Trời ban phước, chớ chẳng phải để tu tâm sửa
tánh.

Bởi vậy:

Niệm Phật, tụng kinh để khẩn cầu,
Lòng còn chấp chứa những mưu sâu,
Dầu cho lễ bái bao năm tháng,
Đức Phật Ngài nào có chứng đâu.

Phật cũng không cần ta cúng Phật, lấy của người đem cúng
Phật, Ngài không ưa đâu. Muốn cúng ngài, hãy đem tiền cuả đi giúp người
nghèo đói, bịnh hoạn, rách rưới mới là cúng Ngài đó.

Phật Ngài chỉ biết dụng lòng,
Không màng hoa quả chớ hòng cúng dâng.
Giúp người bệnh hoạn, đỡ nâng,
Thấy người đói rét mưa đừng làm ngơ.
Tóm thâu vơ vét nhuốc nhơ,
Đem đi cúng Phật bao giờ phước ban.
Phật là của khắp thế gian,
Muốn dâng cúng Phật, hãy mang giúp người.

Vậy từ đây ta hãy lo tu bề trong, chớ Phật không chuộng sự tu bề ngoài đâu:

Tu trong chớ khá tu ngoài,
Tu tâm Phật chuộng tu ngoài Phật xa.

Đời hạ ngươn sắp tàn, trái hạ ngươn sắp rụng, con người
đời nay rất hung dữ, bạo tàn, coi mạng người rất rẻ, nên hội Long Hoa
nay đã mở cửa để chọn người hiền, diệt kẻ dữ, để lập lại đời thượng
ngươn tươi sáng, nên từ đây sắp tới, thế giới lâm vào cảnh loạn lạc,
binh đao, thiên tai, địa ách, bịnh tật tràn lan, tai nạn xảy tới liền
liền không dứt.

Vậy đời nay ai không ăn năn thức tỉnh, sám hối làm
lành, thì không sao qua khỏi cơn lọc lừa, sàn sẩy của Phật Trời trong kỳ
chót này được, vì kỳ này chỉ có chữ Đức mới cứu ta nổi mà thôi.

Kỳ này kẻ ác sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn tồn tại người thiện, vì đây là hội Long Hoa:

Long-Hoa-Hội tràng thi đã mở,
Khuyên người đời, kẻ chợ, cùng quê.
Khá mau thức tỉnh quay về,
Con đường Chánh Đạo hầu kề Như Lai.
Trời đã khiến thiên tai địa ách,
Hạ ngươn là chính sách lọc lừa.
Ăn chay niệm Phật sớm trưa,
Làm lành lánh dữ, mới ngừa hoạ căn.
Nếu chẳng biết ăn năn sám hối,
Thì đừng mong thoát khỏi trận này.
Kíp mau tu sớm càng hay,
Chần chờ để trễ, tai bay đến mình.

Vì:

Thời mạt pháp trả vay rất chóng,
Đời Hạ Ngươn chết sống lẹ thay.
Đời xưa trả báo thì chầy,
Đời nay thưởng phạt một giây nhãn tiền.

Vậy khá nên:

Tu mau kẻo trễ người ơi!
Trần gian sụp đổ tới nơi đây rồi.
Công danh phú quý cuộc đời,
Là tuồng ảo ảnh giấc mơ mau tàn.
Tiền tiền, bạc bạc, vàng vàng,
Càng thâu cho lắm, lại càng khổ thân.
Rồi khi tách biệt dương trần,
Hai bàn tay trắng giữ phần nào đâu.
Sao bằng thức tỉnh tu mau,
Kịp kỳ Long Hội, cùng nhau thanh nhàn.
Mau mau nhẹ bước xuống thoàn,
Đò chiều chuyến chót, rước toàn chơn tu.

Vì là cơn tận diệt kỳ chót, để lọc lừa sàn sẩy, chọn
người hiền đức, ngõ hầu lập lại đời Thượng Ngươn tươi sáng. Nên kỳ nầy
cũng là kỳ đại xá của Phật Trời, vậy không tu rất uổng, vì muôn thuở mới
gặp một lần. Vì là kỳ đại xá nên tu hành rất dễ, bất cứ tại gia hay
xuất gia, ai tu hành chân chánh cũng đều thành cả.

Thời mạt pháp, Phật Trời đại xá,
Hễ có tu, kết quả là thành.
Tại gia niệm Phật làm lành,
Cũng đồng giải thoát siêu sanh Phật đài.

TU MAU KẺO TRỄ

Tu mau kẻo trễ, hỡi ai ơi!
Long Hội tràng thi đã mở rồi.
Đạo đức trường tồn khi đổi kiếp,
Gian tà đào thải lúc thay đời.
Khá tu giúp ích cho nhơn loại,
Mau dựng tình thương khắp mọi nơi.
Chuyến chót, thuyền từ gần tách bến,
Chần chờ, lỡ dịp ắt chơi vơi.

KẾT LUẬN

Nếu quý vị nào có xem kinh Di Lặc thượng sanh hạ sanh, thì mới tin chắc rằng đời mạt pháp rất dễ tu, dễ thành.

Trong hai quyển kinh ấy, Đức Di Lặc có đại ngôn rằng,
đến đời mạt pháp, bất luận kẻ nào tu phước hay tu huệ, tu giới hay tu
định, Ngài sẵn sàng độ kẻ ấy được hoàn toàn giải thoát.

Ai muốn chứng quả thấp, thì hoặc tu phước hoặc tu huệ. Còn ai muốn chứng quả cao thì phải Phước Huệ song tu.

Chay lạt vốn mặc dầu khó nuốt,
Giới răn tuy là việc khó gìn.
Đó là phương pháp vãng sinh.
Khá gìn giữ trọn chớ quên ngày nào.
Dữ rán bỏ chớ thêm việc dữ,
Lành nên làm thêm sự hiền lành.
Tồn sanh sẽ được trường sanh,
Thượng Ngươn trở lại thái bình an vui.



Nếu đường chánh đại không noi,
Khó mong tồn tại để coi lập đời.

TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA

Phật Thích Ca và chư vị Bồ Tát đều công nhận pháp môn
niệm Phật là một phương pháp dễ tu, dễ chứng hơn tất cả các pháp môn tu
hành khác.

Dễ nhất là vì chỉ cần trì niệm sáu chữ “ NAM MÔ A – DI – ĐÀ - PHẬT ” là đủ.

Thân tâm của Đức Thế Tôn khi nói pháp nầy là muốn cứu
rỗi chúng sanh trong đời mạt pháp, phúc tuệ đã mỏng manh, nghiệp chướng
lại sâu dày, vì quá mê nhiễm lạc thú của trần thế. Mặc dù dễ tu, dễ học,
nhưng cứu cánh cũng là giải thoát khỏi nẻo sanh tử luân hồi. Song thử
hỏi, có bao nhiêu người thực hành chơn chánh pháp tu quý báu ấy.

Có người hỏi, tụng kinh lễ bái, tụng niệm, ngồi thiền đủ
thứ, mà còn ít thấy ai thành Phật được thay, nay niệm có sáu chữ, mà
nói thành Phật rất dễ là sao?

Tôi xin thưa: Tụng niệm, lễ bái, gõ mõ, tụng kinh là
hình thức bề ngoài, làm sao thành Phật cho được. Bất quá trong lúc ở
trước cảnh trang nghiêm nơi bàn Phật, thì ba nghiệp (thân, khẩu, ý) của
ta được thanh tịnh lúc đó mà thôi, chớ khi buông dùi mỏ, chuông ra rồi,
thì đâu vẫn hườn đó. Vậy gõ mõ, tụng kinh là để buộc trói cái tâm lại,
đừng cho nó buông lung phóng túng trong lúc đó mà thôi, chớ không phải
cứu cánh để thành Phật.

Cũng có nhiều người chuyên ròng niệm Phật, mà cả đời vẫn không thấy Phật là sao?

Xin thưa:

Pháp môn niệm Phật hay pháp môn nào khác, nếu chỉ tu
trong bốn thời (Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu) thì tôi dám quả quyết rằng không
thành chi hết.

Bất luận pháp môn nào, muốn tu cho thành, ngoài công phu
tứ thời ra, phải áp dụng luôn cả trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm,
ngồi) trừ khi làm việc bằng trí óc mà thôi.

Những bậc tu rốt ráo, dù tiếp khách, làm việc, ngủ nghê, đạo tâm của họ cũng không rời sự tu hành.

Tu như vậy mới có cơ thành Phật.

Vậy niệm Phật không có tứ thời, niệm Phật phải đi, đứng,
nằm, ngồi lúc nào cũng niệm hoài trong tâm không sơ hở. Trừ khi làm
việc bằng trí óc, hoặc ngủ nghê, mỗi ngày ngưng niệm một lát trong lúc
đó thôi. Nhưng sau này khi niệm Phật quen rồi, lúc ngủ tiềm thức của ta
vẫn niệm như thường.

Chúng ta niệm Phật như thế, có cái lợi rất lớn, là lúc
nào cũng ngăn liền tức khắc lòng tà của ta vừa chớm dậy, chớ không để
cho nó bộc lộ ra ngoài cử chỉ và hành vi của ta.

Thí dụ: Khi ta đi ngang qua một cây ớt, một cây cà, cậy
mận v.v… Ta thấy trái chín bóng lưỡng coi ngon quá, nên ta muốn hái về
ăn. Nhưng khi ta vừa thò tay để hái, thì bổng nghe văng vẳng tiếng niệm
Phật ở trong tâm ta đưa ra, ta vội rụt tay lại liền. Trong lúc ấy tâm ta
nói với ta: “Phật không làm như vậy đa. Muốn ăn hãy trồng mà ăn, hoặc mua mà ăn, cùng chẳng đã hãy xin, chứ không được hái lén như vậy đâu”.

Khi ta thấy người đi đường làm rớt cái bóp, ta muốn nhặt
lấy để xài, liền nghe văng vẳng tiếng niệm Phật trong tâm ta vọng ra,
thì ta liền nghĩ: “Phật không lấy của cải ai cả, phải gọi người trở lại lượm đi”. Tức thì ta lên tiếng gọi người làm rớt cái bóp để cho họ hay.

Khi có người đạp nhầm chân ta đau quá, ta vụt nổi sân,
định la lên cho hả cơn giận. Nhưng văng vẳng nghe tiếng niệm Phật trong
lòng ta vang ra, tâm ta liền nói: “Phật phải từ-bi, hỷ-xả, chứ không
biết giận ai”. Ta liền mỉm cười vui vẻ, vì ta biết đó là do sự rủi ro, chớ không ai muốn như thế.

Khi ta muốn giết một con vật để ăn thịt, bỗng tai ta nghe tiếng niệm Phật, khiến ta nhớ: “Phật
từ bi thương xót tất cả chúng sanh, từ loài người cho đến loài vật.
Loài vật cũng biết đau đớn rên la, tham sống sợ chết như ta
”. Khiến cho lòng muốn ăn của ta tiêu tan, nên ta không thể giết nó được.

Khi ta thấy một người đẹp đi ngang qua, dâm ý của ta nổi
lên, liền bị tiếng niệm Phật như nhắc nhở ta: Phật không mê sắc đâu,
Phật phải trang nghiêm minh chánh. Tiếng nói lương tri (nhà Phật gọi
kiến tánh) khiến cho lòng dục của ta phải tiêu tan ngay.

Khi ta muốn nói láo, hay nói lời đâm thọc, rủa sả, cộc
cằn, hoặc nói điều chi có hại cho ai, thì tiếng niệm Phật ngăn ta lại
liền, không cho ta thốt điều chi bất chánh.

Niệm Phật, trước một người đau, một kẻ đói, ta không
thể làm ngơ mà bỏ đi luôn được. Thế nào ta cũng phải tìm cách giúp đỡ
cho họ một ít tiền nong, hoặc gạo thuốc v.v…

Vậy tiếng niệm Phật rất nhiệm màu, nếu hành đúng phương
pháp, nó sẽ làm cho người dữ hoá hiền, kẻ xấu thành tốt, kẻ nóng thành
nguội. Tiếng niệm Phật gợi nơi Phật tử lòng từ-bi hỷ-xả, khiến cho kẻ
đói được no, kẻ rách được lành, kẻ đau được mạnh, kẻ thù hoá bạn v.v…

Tiếng niệm Phật như cây gươm linh: Gươm ấy chực sẵn,
lúc nào cũng rình tà niệm vừa tượng trứng, là chém liền chớ không để nó
có thì giờ sinh nở.

Bởi vậy, người niệm Phật không tranh hơn thua, cao
thấp, không chấp ngã nhơn, thân hoà đồng trụ, khẩu hoà vô tranh, chia
cơm xẻ áo, thuận thảo thương yêu, lúc nào cũng hoà mình với bá tánh, chớ
không sống ích kỷ riêng tư cho mình.

Tiếng niệm Phật ngăn chận vô số hành vi và tư tưởng xấu thuộc thân, khẩu, ý không cho phát sanh.

Pháp môn niệm Phật có kết quả phi thường, nên chư Phật,
chư Bồ Tát đều công nhận là pháp môn cao nhất trong tất cả pháp môn.
Nhưng cần phải niệm niệm không dứt, phải niệm tối ngày không nghỉ, trong
lúc đi, đứng, nằm, ngồi chớ không như các pháp môn khác, phải đợi tới
chiều mới tham thiền quán tưởng, xét nét lại công chuyện của mình đã làm
từ sáng tới tối, coi được bao nhiêu điều thiện, để ngày mai tiếp tục
làm thêm, còn điều ác phải chừa bỏ.

Bởi vậy, có nhiều khi chiều ngồi lại, để tham thiền
quán tưởng lại những điều phải quấy trong ngày đó, thì con gà bị ta cắt
cổ ban sáng, bây giờ nó cũng không sống lại được. Có khi mình đã được
mời vào ngồi trong khám, để quán tưởng lại sự lỗi lầm của mình đã làm
lúc trưa thì đã muộn rồi.

Trái lại, đối với pháp môn niệm Phật, hễ tà niệm trong
tâm vừa chớm nở là bị ta trừ liền, không cho nó kịp xúi bảo ta đem ra
hành động. Nhưng ta phải niệm Phật cho liên tục, đừng cho đứt khoảng. Vì
nếu đứt khoảng sẽ bị giặc thất tình, lục dục nó xâm chiếm ngay, cũng
như ta làm hàng rào phải cậm cây cho liên tiếp, chớ chỗ cậm chỗ không,
thì gà vịt sẽ do lỗ trống đó vô bươi phá tiêu hết rẩy bái.

Vậy tôi xin lập lại một lần nữa, là đối với pháp môn
niệm Phật, ta phải niệm luôn trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, chớ không
được chỉ dùng về tứ thời để niệm Phật, vì làm như vậy tu không thấy kết
quả đâu.

Ban đầu ta thấy niệm rất khó khăn, quên tới quên lui,
khi niệm khi không, nhưng rán trì chí riết rồi nó sẽ quen. Trong lúc ăn,
lúc uống, rửa chén, quét nhà, tắm rửa, chặt cây, cuốc đất, hoặc bất cứ
làm công chuyện chi, cho đến lúc đi tiểu, đi đại gì cũng cứ niệm luôn.

Niệm Phật là tâm niệm chớ chẳng phải miệng niệm. Thế
nên đừng niệm ra tiếng và ta cứ niệm mãi, niệm hoài để tống khứ cho hết
các thứ Ma-Vương yêu quỉ. Chừng nào Ma-Vương thất tình, lục dục không
còn, chừng đó sẽ thấy Phật tới liền. Bởi vì Phật và Ma-Vương không thể ở
chung được đâu: hễ ta đuổi Ma-Vương đi hết thì Phật đến. Trong kinh có
câu:

Tam nghiệp tịnh thì Phật xuất thế,
Tam nghiệp bất tịnh, Phật nhập diệt. (1)

Chú thích: (1) Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được trong sạch thì Phật đến. Ba nghiệp không trong sạch thì Phật đi.

Tiếng niệm Phật sẽ nhắc nhở cho ta luôn: thấy việc ác
đừng làm, thấy việc thiện chớ bỏ qua, tâm ta lúc nào cũng thanh tịnh
sáng suốt, ngoại cảnh sẽ không chi phối ta được, thất tình lục dục sẽ
không còn xâm chiếm để sai khiến ta. Niệm Phật như vậy là ngoài thiền
trong định.

Ngoài không nhiễm cảnh là thiền,
Trong không rối loạn là định.

Vậy đối với pháp môn niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi gì
ta cũng đều thiền định cả, chớ không chấp tướng ngồi mới thiền định
được. Lại nữa, ta chung đụng với thiên hạ mà ta thiền được, định được,
đó mới là cái thiền định chắc chắn, lo gì trí huệ không sanh, lo gì
không thành Phật.

Với pháp môn niệm Phật, lúc nào ta cũng quán xét, lúc
nào ta cũng phân biệt thiện ác, lúc nào ta cũng làm chủ tâm mình, đó là
một tiếng chuông, một tiếng nói vô hình của Đức Phật A-Di-Đà nhắc nhở,
giữ gìn ta luôn. Đến một ngày kia, tâm ta được chùi lau sáng sủa, chừng
đó lòng hằng sanh trí huệ, lại thắm nhuần đức Bác-Ái, Từ-Bi, Hỉ-Xả, thì
chừng đó niệm Phật tưởng cũng bằng thừa. Bởi vì mỗi ý chí, mỗi hành vi,
mỗi lời nói đều tương ưng với Phật. Tương ưng với Phật là hiệp nhứt với
Phật, là đồng thể với Phật. Tánh Phật là tánh chơn không bát nhã, tức là
sáng suốt chẳng mê luyến, chẳng ái trước sắc trần. Nếu ta thi thố
chuyện chi đi nữa, cũng là tuỳ duyên chớ chẳng hề ô nhiễm. Duyên qua rồi
thì trở lại như như, không chấp nê, không dính mắc. Lúc đó là lúc không
còn niệm nữa, lúc đó là cảnh Tây-Phương hiện ra trước mắt. Chừng ấy thì
nhứt cú Di-Đà vô biệt niệm bất lao đàn chỉ đáo Tây-Phương. (Một câu
Di-Đà không tướng khác, chẳng nhọc khảy tay đến Tây-Phương).

Vậy hành pháp môn niệm Phật, y như tôi vừa kể trên, thì
chắc chắn thành Phật, mười người đủ mười. Trái lại, không niệm như thế,
thì niệm Phật đến hết đời này, qua đến vô số kiếp sau cũng không sao
thành Phật được.

Đời mạt pháp này, không có pháp môn nào hơn pháp môn
niệm Phật hết, chư Phật đều nói như thế, vì rất dễ hành lại rất dễ
chứng. Nếu ta niệm đúng cách, nghĩa là phải dùng câu niệm Phật để trau
tâm sửa tánh, tà niệm không còn phát sanh, tham sân si diệt được, thì
thất tình lục dục cũng phải tiêu theo, sẽ đắc quả thành Phật.

Pháp môn niệm Phật thực hiện “Phước huệ song tu”, vì vừa sửa mình vừa giúp đời, thử hỏi còn pháp môn nào cao hơn.

Bởi thế gian phần nhiều niệm Phật ngoài miệng, cho nên ít ai thành Phật là vậy.

Niệm Phật ngoài miệng đẩy đưa,
Tật hư chẳng bỏ tương dưa ích gì.
Niệm Phật diệt tham sân si,
Thất tình lục dục tống đi cho rồi.
Niệm thế mới đúng ai ôi,
Niệm ngoài cửa miệng lôi thôi thêm rầy.
Miệng tâm hoà một mới hay,
Trong ngoài tu cả Phật rày mới linh.
Niệm sao dứt nghiệp sát sinh,
Để cho thế giới thái bình an vui.
Niệm sao cứu khổ ban vui,
Chớ không phải để ngược xuôi bao giờ.
Niệm Phật không kể thân sơ,
Thấy người đau đói làm ngơ sao đành.
Niệm Phật lánh dữ làm lành,
Chớ đừng mê lợi, mê danh, mê tình.
Niệm Phật quyết đặng vãng sinh,
Ăn chay, giữ giới tội tình lánh xa.
Niệm Phật giữ một chữ hoà,
Không tranh hơn kém nhà nhà vui tươi.
Niệm Phật thuận thảo ai ơi,
Bỏ đi những chuyện tranh ngôi tranh quyền.
Niệm Phật lòng dạ cho chuyên,
Quyền cao lợi lớn là thuyền mong manh.
Niệm Phật phải dứt tương tranh,
Mê đời cặn bã hôi tanh làm gì.
Niệm Phật chớ có hồ nghi,
Tín tâm bền chặt nguyện ghi vào lòng.
Niệm Phật chớ có ghi công, (1)
Phật nào gian lận mà hòng kể ra.
Niệm Phật việc ác tránh xa,
Việc lành cố gắng hiện ra bề ngoài.
Thực hành từ thiện không sai,
Liên đài để sẵn chờ ngày vãng sanh.

Chú thích: (1) Ghi công cứ

Đời mỏng manh lắm rồi, anh chị em hãy rán:

Đi đứng niệm Di –Đà , nằm ngồi trì lục tự,
Thức cũng tưởng A – Di, ngủ cũng ghi sáu chữ.
Nói cũng tưởng Nam – Mô, nín cũng ôn Phật sự,
Cực lạc muốn vãng sanh, cứ y hành như thử.
Ở chỗ vắng người, cũng như nơi đô hội,
Bình tĩnh niệm A –Di, chăm nom Bồ - Đề cội,
Nếu tà ý còn sanh, bởi nội tâm còn rối,
Khéo điều khiển lòng mình, đường Tây Phương một lối.

PHÁP MÔN NIỆM PHẬT THÔNG CẢ TIỂU THỪA VÀ ĐẠI THỪA (1)

Chú thích: (1) Từ đoạn này về sau đều trích trong sách Giáo Pháp của Tịnh độ Cư sĩ Phật Hội Việt Nam.

Pháp môn niệm Phật gồm cả:

TAM TỤ

1- Dứt các điều ác,
2- Làm các điều lành,
3- Thương xót và tế độ tất cả chúng sanh.

LỤC HOÀ

1- Thân hoà đồng trụ (cùng nhau hoà hiệp chung ở).
2- Khẩu hoà vô tranh (không tranh đua cải lẫy).
3- Ý hoà đồng duyệt (ưa nhau không trái ý).
4- Giới hoà đồng tu (đồng cùng nhau tu theo giới luật).
5- Kiến hoà đồng giải (sự hiểu biết tu học đều giải rõ với nhau).
6- Lợi hoà đồng quân (quyền lợi chia đều cùng nhau).

BÁT CHÁNH ĐẠO

Pháp tu của Tiểu thừa là Tứ diệu đế, đế thứ tư có Bát chánh đạo. Một phép niệm Phật, cũng có tám món chánh đạo như dưới đây:

1- Chánh kiến: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật tâm tánh sáng tỏ, chỗ tri kiến của mình không còn ta kiến điên đảo, gọi là Chánh kiến.

2- Chánh tư duy: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật,
nên tư tưởng trong sạch (thanh tịnh), mỗi khi suy nghĩ điều chi, đều khế
nghiệp với sự chánh đại quang minh, gọi là Chánh tư duy.

3- Chánh ngữ: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật, hễ
tư tưởng chánh đại quang minh rồi, thì bao giờ lời nói cũng ôn hoà dịu
ngọt. Người ấy không còn nói hai lưỡi (lưỡng thiệt), không còn nói láo
(vọng ngữ), không còn kêu rêu, rủa sả (ác ngữ), không còn nói tục tĩu (ỷ
ngữ), hễ mở miệng thì là toàn lời chân chánh gọi là Chánh ngữ.

4- Chánh nghiệp: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật,
nhờ ba nghiệp thanh tịnh nên thân, khẩu, ý không còn tà kiến điên đảo,
lời nói, ý nghĩ và sự hành động đều chơn chánh, gọi là Chánh nghiệp.

5- Chánh mạng: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật,
nhờ ba nghiệp thanh tịnh, nên sự hành động sanh sống rất trong sạch, rất
thanh liêm, không phạm vào tà nghiệp: sát, đạo, dâm, vọng, vì thế mà
mạng sống được cao khiết chánh đáng gọi là Chánh mạng.

6- Chánh tinh tấn: Người cư sĩ nhất tâm niệm
Phật, siêng năng tu hành, vui vẻ, sốt sắng làm lợi ích cho chúng sanh,
sự tinh tấn ấy quả thật rất chánh đáng gọi là Chánh tinh tấn.

7- Chánh niệm: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật,
lòng không còn các tà vọng điên đảo, dùng lục tự Di – Đà làm một niệm
tưởng chánh, gọi là Chánh niệm.

8- Chánh định: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật,
trong lòng không còn loạn động tạp tưởng, gọi là niệm Phật tam muội. Tam
muội có nghĩa là Chánh định.

Xem những lời nói trên đây, chúng ta thấy rằng người cư
sĩ, tuy có kẻ không biết Bát chánh đạo là gì, song sự tu hành của người
ấy cũng gồm đủ Bát chánh đạo. Đối với Bát chánh đạo, có người dùng Chánh
kiến để diệt tà kiến, dùng Chánh niệm để diệt tà niệm theo lối tu tập
của hành sơ cơ, thì phép niệm Phật cũng gồm đủ hai điều ấy. Bởi vì trì
danh niệm Phật thì tâm không còn tà kiến điên đảo, tâm không còn tà kiến
điên đảo, đó là Chánh kiến, nếu Chánh kiến được duy trì, lẽ tức nhiên
tà kiến không do lẽ nào mà sanh ra được. Trì danh niệm Phật để giữ Chánh
niệm, nếu Chánh niệm được duy trì thì tà niệm không cần dứt cũng tiêu
vong.

Đại thừa Đốn giáo cũng dùng Chánh kiến và Chánh niệm,
song chỗ diệu dụng ấy thật là cao siêu, rất khác với Tiểu thừa. Đốn giáo
không bao giờ dùng Chánh kiến để diệt tà kiến và cũng không bao giờ
dùng tà niệm để diệt tà niệm. Lối tu của Đại thừa là lối tu giác ngộ, vì
lẽ ấy, họ dùng Chánh kiến để giác ngộ tà kiến, dùng Chánh niệm để giác
ngộ tà niệm. Đến chỗ tột công phu, thì tà kiến tà niệm không còn, họ
bèn xả bỏ luôn Chánh kiến và Chánh niệm, không bao giờ chấp giữ trong
lòng mà phải mắc kẹt pháp chấp
.(1)

Chú thích (1) Pháp chấp: cố nắm giữ các phép tu
hành, làm cho nó trói buộc trở lại mình, gọi là pháp phược, trái với lối
tu của Đại thừa.


Phép niệm Phật cũng cao siêu như vậy, dùng niệm Phật để
giác ngộ các niệm chúng sanh, hễ chúng sanh mà giác ngộ, thì là Phật đó
vậy. Bởi vì trong sách Phật có nói: “Giác tức chúng sanh thị Phật, mê
tức Phật thị chúng sanh”. Đến khi các niệm chúng sanh và niệm Phật rốt
ráo không còn tàn tích trong cõi lòng, chừng ấy bổn lai diện mục hiện
tiền, không cầu Phật vì chính mình là Phật, không cầu Niết bàn vì chính
tâm mình là Niết bàn.

LỤC ĐỘ BA LA MẬT

Cũng như Bát chánh đạo, pháp Lục độ Ba la mật của Đại
thừa Bồ tát cũng thâu nhiếp trong phép niệm Phật. Pháp Lục độ gồm có: Bố
thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ (Bát nhã).

Bố thí Ba la mật: Người cư sĩ nhất tâm niệm Phật,
xả bỏ tất cả lòng tham, bao nhiêu những duyên phước thuộc về tài thí,
pháp thí, vô uý thí đều không chấp trước. Chỉ nhất tâm niệm Phật, không
chấp có mình bố thí, không chấp có kẻ thọ thí, không chấp có món gì để
thí, ba món ấy đều không, cái không ấy cũng là không (chẳng chấp không)
đúng với danh nghĩa tam luân thể không của pháp Nhất thừa thiệt tướng,
đó là Bố thí ba la mật.

Trì giới ba la mật: Người cư sĩ nhất tâm niệm
Phật, thân, khẩu, ý ba nghiệp được thanh tịnh, không còn tạo ra các ác
nghiệp, chẳng cần giữ giới mà không phạm giới, nghĩa là không thấy mình
có trì giới, không thấy có giới luật để tu trì, gọi là Trì giới ba la
mật.

Nhẫn nhục Ba la mật: Người cư sĩ nhất tâm niệm
Phật, lòng không còn sân hận, không có pháp nhẫn để tu, không thấy mình
có trì pháp nhẫn, đó là Nhẫn nhục Ba la mật.

Tinh tấn Ba la mật: Người cư sĩ nhất tâm niệm
Phật, lòng không còn thối chuyển, dù phải gặp những điều trở ngại. Luôn
luôn vẫn hăng hái, sốt sắng tu hành và làm việc lợi lạc khắp giới hữu
tình, tự mình không cần giữ lòng tinh tấn, không thấy có phép tinh tấn
để tu, đó là Tinh tấn ba la mật.

Thiền định Ba la mật: Người cư sĩ nhất tâm niệm
Phật, ngoài không ô nhiễm sáu trần, trong không vọng động tạp tưởng.
Lòng tuy vắng lặng mà hằng quang chiếu chẳng đắm không giữ lặng (trầm
không thủ tịch), đó là ngoài thiền trong định, đó là Thiền định Ba la
mật.

Trí huệ Ba la mật: Người cư sĩ nhất tâm niệm
Phật, lòng được sáng suốt (1) không còn dùng trí huệ để độ ngu si, không
chấp có trí năng chứng, không thấy có lý sở chứng, đó là Bát nhã ba la
mật.

Chú thích: (1) Không sanh diệt là sáng suốt, sanh
diệt là tối tăm. Nhờ nhất tâm niệm Phật nên lòng không còn sanh diệt
nghĩa là được sáng suốt.


Chỉ có nhất tâm niệm Phật mà hàm đủ các pháp, thông đủ
ba thừa, gồm thâu bốn giáo, nếu chẳng phải pháp môn niệm Phật, thì quyết
chẳng có pháp môn nào được thù thắng như vậy. Nếu có chăng nữa, thì
công phu tu hành phải trải hằng hà sa số kiếp, chớ chẳng phải mau lẹ như
pháp môn niệm Phật.

Huyền diệu thay pháp môn niệm Phật.

Người niệm Phật biết làm lành, tức là biết hành lòng từ
bi của chư Phật. Cõi lòng đã mở, nếu kiên tâm trì chí, lâu ngày chầy
tháng, công phu sẽ thuần thục, biết hồi quang phản chiếu, sẽ nhận thấy
lòng mình còn nhiều dục vọng, nào tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Nhờ
tin Phật, tưởng Phật, hạng người nầy mới nhẫn nhục, tinh tiến, thâu
nhiếp thân tâm, cố làm sao diệt trừ mầm độc, hầu niệm trước, niệm nay,
niệm sau, niệm niệm tương ưng với Đức Phật A Di Đà.

Người niệm Phật đã biết quay đầu hướng thiện, siêng lo
việc lành, xa lánh điều ác, thân sẽ được yên ổn vui tươi. Thân tâm nhàn
nhã, tâm tư mới thanh tịnh và phát sanh trí huệ. Công phu thuần thục,
trí huệ đến độ Đại quang minh, người niệm Phật sẽ suốt thông chơn lý của
vũ trụ vạn hữu, cõi Cực lạc cũng như cõi Ta bà đều bởi Tâm Phật, Tâm
mình, Tâm chúng sanh tạo ra cả. Cõi đời ác trược là bởi nghiệp sát, đạo,
dâm, dâm, vọng, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến của chúng sanh đã tạo
ra, còn cõi Tịnh Độ là do công đức vô lượng vô biên của Phật A Di Đà,
chư Phật và chư Bồ Tát, cùng hạnh nguyện sâu dày của các hàng Phật tử.

Đã hiểu rõ và tin chắc, người niệm Phật phát tâm cầu đạo
Vô thượng, thệ nguyện đem hết tâm, trí huệ, tài sản và sanh mạng để
chuyển cái kiếp trược này ra Hải Hội Thanh Tịnh, hoán cải thân trược của
chúng sanh ra thân Vô lượng thọ, Vô lượng quang. Làm được như thế mặc
dầu mang cái thân vô thường khổ cực, ô uế này, mặc dù ăn chung ở lộn với
đời, thế mà không còn là người trong cõi Ta bà này nữa. Dưới đầy là lời
của Đức Lục Tổ Huệ Năng:

Người đời chẳng rõ được tự tánh, chẳng biết được
Tịnh độ ở trong thân mình, nên cầu đông, cầu tây, chớ đã tỏ ngộ, thì ở
chỗ nào cũng vậy; sở dĩ Phật nói: “Tuỳ ở chỗ nào, cũng thường an vui”.
Nếu tâm của mình không điều gì chẳng lành, thì dầu có niệm Phật, cầu
vãng sanh cũng khó đến. Muốn quy hướng về Phật, thì phải theo trong tánh
mà làm, chớ chạy theo ngoại thân mà tìm cầu. Tâm giác ngộ sáng suốt,
Tâm ấy là Phật. Tâm làm Phật phóng Đại quang minh, ngoài soi sáu cửa
thanh tịnh, phá hết các trời lục dục, chiếu vào tự tánh, ba độc tham,
sân, si dứt liền, các tội thảy đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tỏ, không
khác gì cõi Tây phương. Nếu chẳng tu theo phép ấy, thì làm sao đến cõi
kia được
”.

CHƯ PHẬT VÀ BỒ TÁT KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ

Đức Phật A Di Đà:

“Chúng sanh trong mười phương thế giới, nếu nghe danh
hiệu Ta, bèn bền lòng tin tưởng, muốn nguyện sanh về cõi Tịnh độ của Ta,
từ một niệm nhẫn đến mười niệm, nếu chúng sanh đó không sanh về nước
Ta, thì Ta không ở ngôi Chánh giác”. (Một trong 48 lời nguyện của Phật A
Di Đà)

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:

“ Nếu người tu hành nào đã phát nguyện, đương phát
nguyện, hay sẽ phát nguyện về Thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà,
hoặc đương sanh, hoặc sẽ sanh thì những người ấy chứng đặng bực Bất thối
đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Nầy Xá Lợi Phất: “Các thiện nam tín nữ, người nào tin chắc, hãy phát nguyện sanh về cõi ấy”. (A Di Đà Kinh)

“Chúng sanh nào được nghe lời ta chỉ dạy, thì nên phát
nguyện cầu vãng sanh về nước đó, thì cùng với các vị Bồ Tát đồng hội họp
chung một chỗ” (A Di Đà Kinh)

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử :

“Nếu thiện nam tín nữ nào ước nguyện tu hành cho thành
Phật, thì không có pháp môn nào bằng pháp môn niệm Phật. Niệm Phật chắc
chắn mau chứng quả Vô thượng bồ đề”.

Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật. Pháp môn niệm Phật là chúa các pháp môn.

Mã Minh Đại sĩ:

“Chuyên tâm niệm Phật là một phương tiện siêu thắng của Như Lai”.

Long Thọ Bồ Tát:

“ Niệm Phật Tam muội thì được đại trí huệ, đại phước
đức, đoạn trừ tất cả phiền não tội chứng và độ được tất cả chúng sanh.
Niệm Phật Tam muội thì sanh vô lượng tam muội, cho đến cũng được Thủ
Lăng Nghiêm tam muội”.

Quan Thế Âm Bồ Tát:

“Tịnh độ pháp môn, hơn tất cả các hạnh tu khác”.

Ấn Quang Đại Sư:

“Cửu giới chúng sanh (từ Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn,
đến Thiên, Nhơn, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh đối với Phật, gọi
là chúng sanh) nếu rời pháp môn niệm Phật thì khó viên thành Phật quả.
Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này, quyết không thể độ khắp chúng
sanh”.

“Nhờ nương Phật lực, nên tất cả mọi người, bất cứ là
nghiệp hoặc vô minh nhiều hay ít, bất cứ công phu hành đạo cạn hay sâu,
miễn đức tin cho chắc chắn, lòng thệ nguyện cho tha thiết thì quả quyết
rằng: Muôn người tuân theo pháp môn niệm Phật, muôn người đều được vãng
sanh không sót một người.

Ngoài ra, nếu là những bậc đã đoạn trừ ma hoặc, chứng
đặng chân lý mà cầu vãng sanh Tịnh độ, thì mau vượt tới hàng Thập địa Bồ
Tát. Còn như hàng Thập địa Bồ Tát mà cầu vãng sanh, thì mau viên thành
Phật quả”.

Giác Minh Diệu Hạnh Thiền Sư:

“Pháp môn niệm Phật là Tâm Tông của chư Phật, là con đường tắt nhất hạng, để giải thoát cho tất cả loại chúng sanh”.

Ôi, một pháp môn tu học có bảo đảm chắc chắn thành tựu Phật quả, mà không tu, nghĩ cũng đáng tiếc thật.

Vả chăng, niệm Phật là đánh thức ngay cái tri giác tức
là ta đã cấu tạo ngay cái nhân Tịnh độ nơi cõi lòng rồi. Trong lúc ấy
thì cái tánh thỉ giác (1) không thể lìa xa cái tâm năng niệm, nếu không
lìa thì Di Đà tự tánh hiện tiền, sự thành Phật đã thấy trước mắt không
cần phải đợi vãng sanh. Thật là một pháp môn tu học cao siêu màu nhiệm,
quả là chúa của các pháp môn y như lời nói của đức Văn Thù Sư Lợi.

Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
 
TU MAU KẺO TRỄ VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến