ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
Trì giới niệm Phật  Vote_lcapTrì giới niệm Phật  I_voting_barTrì giới niệm Phật  Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 Trì giới niệm Phật

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Trì giới niệm Phật  Empty
Bài gửiTiêu đề: Trì giới niệm Phật    Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeTue Jun 07, 2011 3:09 am

Cư sĩ Lưu Trình Chi, tự Trọng Tư, hiệu Di Dân đời Tấn, người Bành Thành. Thuở nhỏ mồ côi, thờ mẹ hiếu thuận, thích Lão Trang, giữ chức Phủ Tham Quân. Ông cực lực từ bỏ chuyện tiến dẫn trên đường công khanh, đến Lô Sơn theo học với Tổ Huệ Viễn. Tổ hỏi:
- Quan chức, bổng lộc vòi vọi sao lại chẳng làm?
- Nhà Tấn không có sự được sự bền vững như đá tảng, dân tình mang nỗi nguy như trứng chồng, con biết làm thế nào?
Ông cùng những vị sĩ phu có lòng tin thanh tịnh như Tông Khác v.v… một trăm hai mươi ba người dựng am, kết xã đồng tu Tịnh Nghiệp, khắc đá lập thệ. Ông nghiên cứu đạo huyền một cách tinh tường, kiêm trì giới cấm, làm thơ Niệm Phật Tam Muội.
Ở Lô Sơn mới được nửa năm, trong khi nhập Ðịnh, ông thấy kim quang của Phật chiếu sáng mặt đất. Mười lăm năm sau, trong khi đang niệm Phật, thấy tướng ngọc hào quang của Phật chiếu soi, Phật xòe tay đón tiếp, vỗ về. Ông Lưu nguyện:
- Xin Phật xoa đầu con, dùng y trùm thân con!
Phật liền xoa đầu ông, lại dùng áo ca sa trùm lên. Tiếp đó, ông lại mộng thấy mình vào trong ao bảy báu, thấy hoa sen xanh, trắng, và thấy một vị sau cổ có viên quang, trên ngực có chữ Vạn, chỉ nước trong ao bảo:
- Nước tám công đức đó, ông nên uống đi!
Uống vào thấy nước ngon ngọt. Tỉnh giấc, thấy mùi hương lạ bốc ra từ lỗ chân lông, bèn nói:
- Ðây là duyên Tịnh Ðộ của mình đã đến rồi!
Ông đốt hương, lễ nguyện:
- Nguyện cho hết thảy hữu tình đều sanh Tịnh Ðộ.
Ông từ biệt đại chúng, hướng về Tây tọa hóa, thọ năm mươi chín tuổi.
(theo Ðông Lâm Truyện)
Nhận định:
Từ lúc ngài Huệ Viễn đề xướng Tịnh Ðộ, trong những cư sĩ theo ngài kết xã niệm Phật thì vị cư sĩ này là người thứ nhất vãng sanh nên được nêu lên đầu tiên để làm khuôn phép vĩnh viễn cho việc trì giới niệm Phật.
Xâu chuỗi chẳng rời tay
Cư sĩ Vương Cổ tự Mẫn Trọng đời Tống, người Ðông Quận, là tằng tôn của Văn Chánh Vương Công Ðán (ông Ðán làm Tướng Quốc đời Tống, từng tham gia Tịnh Hạnh Xã của tổ Tỉnh Thường). Trong bảy đời trước, ông từng giữ giới không sát sanh, phát tâm phóng sanh mấy cả trăm vạn mạng.
Lúc đầu, ông học hỏi những sự trong Tông môn. Ít lâu sau, viết tác phẩm Trực Chỉ Tịnh Ðộ Quyết Nghi Tập để hoằng dương Thánh giáo. Lúc nhàn cư, xâu chuỗi chẳng rời tay; đi, đứng, nằm, ngồi đều tu hành Tịnh nghiệp chưa hề gián đoạn. Ông làm quan đến chức Hộ Bộ Thị Lang; do bè đảng trong triều xâu xé nhau, ông bị mất chức, ít lâu sau liền tịch. Có vị Tăng nhập định lên Tịnh Ðộ, thấy ông và ông Cát Phồn đều ở tại đó.
(theo Tống Sử, phần Pháp Hỷ Chí)
Nhận định:
Kinh Sổ Châu Công Ðức nói: “Nếu có người tay cầm xâu chuỗi dù chẳng niệm tụng danh hiệu Phật và đà ra ni thì người ấy cũng được phước vô lượng”, huống hồ là xâu chuỗi chẳng rời tay, niệm Phật không gián đoạn?
Quán kinh nói: “Từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh sẽ thượng phẩm thượng sanh”, huống hồ là phóng sanh đến cả trăm vạn mạng?
Mỗi ngày làm một điều lành
Cư sĩ Cát Phồn đời Tống, người xứ Trừng Giang. Lúc đầu mỗi ngày làm một điều lợi cho người, rồi hành hai điều, ba điều cho đến mười điều. Suốt mấy mươi năm chưa hề bỏ phế một ngày nào.
Lúc làm quan thái thú trấn nhậm vùng Giang Tô, có người hỏi làm thế nào để làm lợi cho người, ông chỉ ngay cái bệ lót chân ở chỗ mình ngồi, bảo:
- Nếu vật này chẳng đặt ngay thì sẽ làm người ta què chân, tôi liền kê ngay lại, đấy cũng là việc lợi người. Nếu ai khát, tôi cho uống nước thì cũng là việc lợi người. Chỉ tùy theo từng việc mà làm lợi. Trên cho đến khanh tướng, dưới xuống đến kẻ ăn mày, ai nấy đều làm được. Chỉ cốt sao lâu ngày chẳng buông bỏ mà thôi.
Ông làm quan đến chức Triêu Tán Ðại Phu, dù là phủ đường hay nhà tư, ông đều sắp dọn một gian tịnh thất bày tượng Phật. Một ngày kia, trong lúc ông đang lễ bái niệm Phật, xá lợi từ trên không hạ xuống. Sau ông không bịnh tật gì, ngồi ngay ngắn hướng về Tây mà tịch.
(theo Tống Sử và Long Thư Tịnh Ðộ Văn)
Nhận định:
Tùy việc lợi người là trợ hạnh cho Tịnh nghiệp. Xá lợi từ trên không giáng xuống là do lòng tinh thành cảm nên. Người hay than không tiền nên chẳng làm công đức nổi, hoặc niệm Phật không cảm ứng thì do đây sẽ thấy công đức chẳng tốn phí tiền bạc, công niệm Phật chẳng luống uổng, ai nấy chẳng nên quan tâm ra sức tu hành hay sao?
Xin hãy bắt chước ông Cát gắng sức tu hành. Phàm bất cứ việc gì có lợi cho người, chẳng cần biết là việc lớn hay nhỏ, bản thân nhàn hay bận, sức mình cáng đáng nổi hay không, đều cứ hoan hỷ thi hành, làm được đến đâu hay đến đó!
Trì đã thuần thục, hễ động thì vạn thiện đều nương theo, không việc gì là chẳng lành. Dùng đấy để niệm Phật hồi hướng, ắt vãng sanh trong phẩm vị cao!
Thập niệm hồi hướng
Cư sĩ Mã Vu tự Trọng Ngọc đời Tống, người huyện Hợp Phì. Cha là Trung Túc Công Mã Lương, làm thái thú Hàng Châu, được ngài Từ Vân Tuân Thức dạy cho pháp môn Tịnh Ðộ, cả nhà bèn thờ Phật.
Cư sĩ gặp được vị Tăng tên Quảng Sơ truyền cho cuốn Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai, mừng rỡ bảo:
- Tôi nay đã tìm được chỗ về rồi!
Ông liền áp dụng pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Tuân Thức, tu tập suốt hơn hai mươi năm. Về sau, giao du với ông Vương Cổ, ông càng thêm tinh tấn niệm Phật, thường lấy việc phóng sanh làm Phật sự. Ông lần lượt làm thái thú ở Chuy Châu, Tân Ðịnh, cai trị bằng lòng nhân từ, độ lượng. Hằng ngày ông luôn định thời khóa tụng kinh chú.
Thuở đó, phu nhân của Hình Vương (Hình Vương là chú của vua Tống Triết Tông) nằm mộng dạo chơi Liên Trì, trông thấy ông mặc triều phục ngồi trên hoa sen. Sau đó, ông mắc bệnh, bèn tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà qua đời. Người nhà đều nằm mộng thấy ông bảo:
- Ta đã được sanh vào Thượng Phẩm của Tịnh Ðộ!
Con ông là Vĩnh Dật cũng tu pháp Thập Niệm suốt ba mươi năm hơn; sau cũng mắc bệnh, thấy Phật và hai vị Bồ Tát tiếp dẫn, bèn kết ấn, thị tịch. Mùi thơm tràn ngập cả nhà.
(theo Lạc Bang Văn Loại)
Nhận định:
Sáng ra niệm mười niệm thì dù là người bận rộn cũng dễ làm được. Nếu có thể mỗi ngày chí thành như thế thì không ai là không vãng sanh. Trường hợp của Mã công tử (Mã Vĩnh Dật) đủ để chứng nghiệm vậy.
Do sau khi đã tinh tấn niệm Phật, ông Mã lại còn thường phóng sanh và dùng lòng nhân từ, độ lượng để cai trị, phước huệ song tu nên ngay lúc còn sống thần thức đã ngao du Tịnh Ðộ; chết đi, liền sanh trong Thượng Phẩm. Những người đang nắm giữ quyền chức hãy nên học theo gương ông.
Ngàn lạy trong khóa tụng hằng ngày
Cư sĩ Vương Nhật Hưu hiệu Hư Trung đời Tống, người huyện Long Thư. Ðược cử vào chức Quốc Học Tấn Sĩ, ông bỏ quan chức chẳng nhận. Ông bác thông kinh sử, nhưng một bữa kia buông bỏ hết, bảo:
- Ðều là những thứ tạo thêm nghiệp, chẳng phải là pháp rốt ráo, ta lấy Tây Phương làm chỗ quay về!
Từ đấy, ông tinh tấn niệm Phật. Năm sáu mươi tuổi, ông mặc áo vải, ăn rau, nhật khóa lễ một ngàn lạy đến nửa đêm mới nghỉ. Trong tác phẩm Long Thư Tịnh Ðộ Văn, từ hạng vua, quan cho đến những kẻ đồ tể, nấu rượu, hạng người tội lỗi, ông đều khuyên trì danh niệm Phật, phổ khuyến tu trì.
Ba ngày trước khi mất, ông từ biệt tất cả thân hữu, khuyên họ nên tinh tấn Tịnh nghiệp, bảo: mình sắp có việc phải đi, không gặp lại nhau nữa. Ðến kỳ, ông giảng sách cho học trò xong, lễ niệm như thường, chợt cao giọng niệm Phật mấy tiếng, bảo: “Phật đến đón ta!”, đứng trơ trơ mà hóa.
(theo Tịnh Ðộ Văn)
Nhận định:
Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy:
“Lễ Phật một lạy được mười thứ công đức:
1. Một là được sắc thân đẹp đẽ.
2. Hai là nói ra được người khác tin tưởng.
3. Ba là ở giữa đại chúng không sợ hãi.
4. Bốn là được chư Phật hộ niệm.
5. Năm là đầy đủ oai nghi.
6. Sáu là mọi người thân cận.
7. Bảy là chư thiên kính yêu.
8. Tám là đủ đại phước báo.
9. Chín là chết đi sẽ vãng sanh.
10. Mười là mau chứng Niết Bàn”
Huống hồ là nhật khóa ngàn lạy ư?
Tác phẩm Tịnh Ðộ Văn của ông tuy lời lẽ đơn giản, nhưng thí dụ sâu xa đều là do ông bác thông kinh luận và thân hạnh cùng tột mà thành. Phổ khuyến tu trì thật là thiết tha, khẩn khoản; ai đọc đến mà chẳng phát khởi tín tâm? Xin hãy ấn hành lưu thông rộng rãi tác phẩm ấy để khuyên khắp mọi người lễ niệm, đồng sanh Tịnh Ðộ.
Ðoạn tuyệt đồ mặn, vãng sanh Tây Phương
Cư sĩ Châu Sở Phong, hiệu Diên Chương đời Minh, người tỉnh Vân Nam. Ông tánh hiền lương, thích niệm Phật, trị gia chẳng kể được, mất; có gì đều chia ngay cho người nghèo khổ hết.
Ai khen ông chỉ cười; ai mắng chửi, nhục mạ, ông cũng chỉ cười mà thôi! Mỗi sáng sớm, ông tụng kinh Kim Cang, kinh Di Ðà và niệm Phật hiệu rất vui vẻ, sung sướng! Ông thường bảo:
- Tôi chẳng bỏ công việc hằng ngày, nhưng chẳng dính vào tham ái, cứ như thế mà thôi!
Năm tám mươi chín tuổi, vào tiết Thanh Minh, ông đi viếng mộ để từ biệt tổ tiên, cha mẹ; trở về, bảo vợ:
- Tôi sắp đi đây, Phật Di Ðà đón tôi, Quán Âm và Thế Chí đều đến cả!
Lại bảo:
- Ðức Quán Âm bảo tôi dứt trọn đồ mặn trong năm ngày mới được vãng sanh Tây Phương!
Mỗi ngày, ông liền ăn một bữa cháo, một bữa rau. Ðến kỳ, tắm gội, đội mão, sai con cháu tụng Phật hiệu. Tự mình tụng kinh xong, ông đoan tọa mà hóa. Thân bốc ra mùi thơm, vẻ mặt hệt như lúc sống.
(theo Kim Cang Linh Dị Lục)
Nhận định:
Ai khen chỉ cười là mật hạnh tịnh tấn. Ai mắng chửi cũng cười là sân độc đã hết sạch. Có của cải gì liền chia hết là tham độc cũng đã tận. Phật và Bồ Tát đến đón, còn dặn phải kiêng đồ mặn trong năm ngày mới có thể vãng sanh, đủ chứng minh rằng dù chưa thể ngưng tay dao, miệng còn tham vị ngon vẫn có thể được vãng sanh. Xin hãy lấy việc ăn chay, kiêng giết chóc làm nhiệm vụ cấp bách.
Lâm chung dũng mãnh
Cư sĩ Văn Trọng Tử, tự Tử Dữ, hiệu Khải Sơ và Ðại Thịnh đời Minh, người huyện Tiền Ðường. Thuở bé lắm bịnh, chí muốn thoát sanh tử, không có ý định lập gia đình. Ông quy y với Tổ Vân Thê, thọ trì pháp môn Niệm Phật, dốc lòng tin, cật lực tu hành.
Em rể là cư sĩ Hoàng Nguyên Phù tự Thừa Huệ, hiệu Tịnh Minh tính người khẳng khái, thanh cảnh, không thích bon chen cõi tục, hiếu thuận, thích bố thí. Ông Văn thấy em rể thanh bần như thế bèn hướng dẫn đến quy y với tổ Vân Thê. Sau ông Hoàng mửa ra máu, lâu ngày càng nặng, ông Văn lại dạy em rể hãy niệm Phật. Ông Hoàng càng thống khổ; vừa mới tỉnh, Văn cư sĩ đã lớn tiếng hỏi:
- Lúc mắt chú dại đi thì lúc ấy mới biết khổ, rốt cục sẽ đi về đâu?
Ông Hoàng run sợ:
- Phải làm thế nào đây?
Ông Văn bảo:
- Chẳng gì bằng niệm Phật!
Ông Hoàng hỏi:
- Bác dạy em niệm tự tánh Di Ðà hay là niệm Cực Lạc Di Ðà?
Ông Văn bảo:
- Chú cho là có hai hay sao?
Ông Hoàng có phần tỉnh ngộ, liền thỉnh Tăng, bày tượng Phật, giảng nhân duyên Tịnh Ðộ, xuống tóc, thọ giới Sa Di và trợ niệm cho mình; tự suất lãnh cả nhà niệm Phật suốt bảy ngày. Chợt nghe mùi hoa sen, ông Hoàng mỉm cười, nói kệ, ngồi ngay ngắn qua đời.
Ðến khi ngài Hám Sơn Ðức Thanh đến điếu tang ngài Vân Thê, ông Văn cũng đến lễ thỉnh, xin được thế phát. Ðại Sư bảo:
- Tứ đại chẳng thể ngăn trở được Phật tánh, râu tóc có trở ngại chi! Cha mẹ còn, Phật tử đành cam bất hiếu hay sao?
Ông mới thôi. Về sau, bị bịnh nặng, ông tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn gì. Ðến lúc bịnh gần chết, bao nhiêu nghiệp tích tập hiện tiền, tâm thần hoảng hốt, ông mới biết là Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ dàng, bèn cố nhỏm dậy, kêu ầm lên:
- Mau thỉnh thiện tri thức niệm Phật giúp ta!
Bạn bè nhóm lại, niệm Phật suốt mấy ngày, nhưng những nghiệp cảnh tập khí vẫn vần vũ, ông lại kêu:
- Căn bản sanh tử không người nào khác dẹp nổi!
Liền đứng dậy, mặc áo, tắm gội, đối trước Phật đốt hương trên cánh tay, buồn thương, thành khẩn sám hối, niệm Phật suốt đêm không chút mệt mỏi. Ông tự biết túc chướng đã băng tiêu, tâm an thần sảng, Tịnh Ðộ hiện tiền, hoan hỷ tịch định, vội cạo tóc, khoác cà sa ra dáng tăng sĩ, từ biệt mọi người, ngồi ngay ngắn qua đời.
(theo Mộng Du Tập)
Nhận định:
Ông Hoàng bịnh càng ngày càng nặng, chợt được nghe khai thị bèn tỉnh ngộ, liền nhất niệm kiên quyết nên bèn có thể buông xuống vạn duyên, niệm Phật bảy ngày, vãng sanh ngay chẳng trở ngại gì.
Ông Văn tuy sớm dốc lòng tin, tận lực tu hành, nhưng tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn; đến lúc nguy ách, tập khí hiện tiền, mới biết Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ! Cho đến khi nhờ tri thức trợ niệm suốt mấy ngày vô hiệu mới rõ căn bản sanh tử không ai bạt trừ giùm mình được nổi!
Ðại sư Hám Sơn nói:
“Tập cảnh hiện tiền lúc lâm chung há chẳng phải là để thấy trước ác đạo ư? Sao chẳng dũng mãnh, phấn khởi, hô to một tiếng giận dữ, bạt trừ cội gốc sanh tử bao kiếp, biến nẻo khổ thành Tịnh Ðộ, há chẳng phải là những bậc trượng phu hay sao? Ðạo lý ấy há có thể dùng âm thanh, vẻ mặt cười cợt để thực hành nổi ư?”
Nếu tự thị là dễ thì sẽ lười nhác, còn biết là khó thì sẽ dũng mãnh, tinh tấn!
Thầy thuốc khuyên niệm Phật
Cư sĩ Trầm Khải Bạch tự Trung Húc đời Thanh, người Ngô Huyện; thuở nhỏ tánh hào đãng, thích giúp đỡ người hoạn nạn. Sau ông nổi danh về tài làm thuốc, càng ưa bố thí. Ðối với người nghèo, ông chẳng lấy tiền khám bịnh, hoặc còn cho thêm tiền.
Năm hai mươi lăm tuổi, vợ mất, ông không tái giá, dốc lòng tu Tịnh nghiệp. Trên những tăng phường, đầu đường, thành cầu đi qua, ông đều đề danh hiệu Tây Phương Phật và những lời cảnh sách khuyên người niệm Phật. Gặp phải người bịnh nguy ngập, ông đều nghiêm nghị bảo:
- Tội nghiệt sâu nặng, sức tôi chẳng cứu nổi biết làm sao đây!
Người bịnh khóc lóc cố van nài, ông liền bảo:
- Chỉ có đức A Di Ðà Phật ở thế giới Cực Lạc nơi phương Tây, nếu ông có thể chí tâm xưng niệm một tiếng thì diệt được tội trong tám mươi kiếp sanh tử. Ông có tin nổi, niệm nổi hay không?
Kẻ ấy vâng vâng, dạ dạ. Ông bảo:
- Nếu đúng là như vậy thì bịnh có thể trị được!
Liền cắt thuốc, lần nào cũng hiệu nghiệm lạ kỳ nên từ đó, những người quy hướng Phật rất nhiều. Lúc hơn bảy mươi tuổi, ông niệm Phật rồi tịch.
(theo sách Nhị Lâm Cư, tập cuối)
Nhận định:
Bố Thí là độ đầu trong Lục Ðộ. Ông Vương Long Thư nói:
“Kẻ làm thầy thuốc nên thường tự nghĩ: Thân người bịnh khổ nào khác thân ta. Chớ nề quý, tiện, nghèo, giàu, chuyên tâm cứu người để kết nhân duyên, để tích phước cho mình. Trong chốn u minh sẽ tự được thánh hiền gia hộ. Nếu luôn giữ được tấm lòng như vậy, hồi hướng Tịnh Ðộ ắt sẽ sanh trong Thượng Phẩm.
Nếu nhân lúc người khác bị bịnh khổ mà mình khuyên dạy họ Tịnh Ðộ thì họ dễ sanh tín tâm. Lại khiến cho họ phát đại nguyện: sẽ lưu truyền rộng rãi chuyện của họ để bù chuộc túc nghiệp, cầu mong được lành bệnh thì ắt sẽ được thỏa nguyện. Nếu như tuổi thọ đã hết thì cũng nhờ vào nguyện lực ấy chóng sanh về Tịnh Ðộ.
Thường giáo hóa người khác như vậy thì chẳng những chỉ sau khi xả thân được sanh trong Thượng Phẩm mà ngay trong hiện đời cũng được hưởng phước báo vô tận vậy!”
Làm quan thờ Phật
Ông Trương Lan Chử, tự Sư Thành, hiệu Nhất Tây Cư Sĩ đời Thanh, người huyện Quy An ở Hồ Châu. Lúc trẻ, đỗ đạt, đi trấn nhậm những vùng biên cương.
Ông làm tuần vũ tỉnh Giang Tô, thấy sát nghiệp quá nặng bèn nhiều lần ra yết thị khuyên tránh sát sanh, lập con sông phóng sanh, nghiêm cấm đánh cá; trong dinh không thết tiệc đãi khách, không sát sanh, trường trai thờ Phật, gởi lòng nơi Tịnh Ðộ.
Ông chọn lấy những luận thuyết Tịnh Ðộ của các bậc tiên hiền, soạn thành cuốn Kính Trung Kính Hựu Kính (con đường tắt hơn con đường tắt nhất trong những đường tắt) để phổ khuyến niệm Phật.
Lúc đã ngoài sáu mươi tuổi, ông xin từ quan, về làng, ở yên trong một gian nhà hẹp, một dạ quy Tây. Lâm chung, tụng kinh Di Ðà xong, vừa mới niệm Phật hiệu được năm câu, ông lặng lẽ tịch.
(theo Trương Lan Chử Niên Phổ)
Nhận định:
Phú quý học đạo khó vì kẻ theo đuổi công danh lấy việc thăng quan tiến chức làm trọng; kẻ ham vui phóng dật coi tịnh tu là khổ, đâu ai chịu buông bỏ trần lao để gởi lòng nơi Tịnh Ðộ, trường trai thờ Phật?
Xin những người làm quan hãy lấy ông Trương làm gương.
Từ Ðạo Giáo chuyển sang Phật giáo
Ông Bành Xích Mộc tự Thiệu Thăng, hiệu Tế Thanh, Nhị Lâm Cư Sĩ, Tri Quy Tử… đời Thanh là người Trường Châu. Năm mười tám tuổi, ông liên tiếp đỗ đầu, được danh hiệu Tấn Sĩ.
Ðột nhiên, ông tự tỉnh ngộ, bảo: “Ta chưa minh được cái tâm mình, biết làm sao đây!” Bèn tu luyện theo cách tu của Ðạo Gia suốt ba năm, chẳng kết quả gì. Ðọc sách Phật, ông sảng khoái nói: “Ðạo chính là đây!”. Từ đấy, ông tin tưởng đạo Phật, bỏ hết những điều mình đang tu tập, chuyên tâm niệm Phật.
Ít lâu sau, ông thọ Bồ Tát giới, thôi ăn thịt, chẳng gần đàn bà; thường bảo: chí nơi Tây Phương, hạnh tại Phạm Võng. Ông bế quan tại Văn Tinh Các tu Nhất Hạnh Tam Muội; đề biển Nhất Hạnh Cư. Ông sai thợ vẽ tranh Cực Lạc Thế Giới dựa theo cảnh y báo, chánh báo trang nghiêm được dạy trong ba kinh Tịnh Ðộ.
Ông viết cuốn Nhất Thừa Quyết Nghi Luận; do thông đạt cả Nho lẫn Thích nên ông còn soạn cuốn Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận để dàn hòa cuộc tranh luận giữa Thiền và Tịnh. Ông soạn ra Tịnh Ðộ Tam Kinh Tân Luận để xiển dương những ý chỉ chưa được bàn luận rốt ráo trong Liên Tông. Những tác phẩm của ông như Cư Sĩ Truyện, Thiện Nữ Nhân Truyện, Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục v.v… tùy cơ tiếp dẫn, được truyền tụng nhiều trong đời.
Ông bỏ ra cả vạn lượng vàng như không để lập chùa thờ Phật, ấn tống kinh điển, nuôi cơm tăng chúng, mở ra Cận Thủ Ðường để chữa bịnh cho người nghèo túng, dùng ruộng của người giàu trong họ để giúp đỡ họ hàng nghèo. Ông sáng lập Tuất Ly Hội để giúp đỡ những người ở góa, lập nên Phóng Sanh Hội để chuộc mạng cho loài vật. Việc nào ông cũng làm văn phát nguyện hồi hướng Tịnh Ðộ. Ông ẩn cư trong các tăng xá ở đất Tô, Hàng hơn mười năm, mỗi ngày đều có thời khóa tụng niệm.
Sau ông mắc bịnh hạ lỵ, biết trước ngày mất, chẳng lập kẻ thừa tự, đem những tài sản của các hội giao phó cho con rể, dặn dò duy trì lâu dài, đừng để tan rã. Ông làm kệ từ biệt cõi đời, hướng về Tây niệm Phật tọa thoát. Thọ năm mươi bảy tuổi.
(theo Cư Sĩ Truyện)
Nhận định:
Tuổi trẻ đã đỗ đạt cao, nhưng chẳng tham luyến vinh hoa cõi trần, chỉ cầu minh tâm, từ Ðạo giáo chuyển sang Phật giáo. Chánh hạnh, trợ hạnh kiêm tu, làm kệ, tọa thoát, nếu chẳng phải là thiện căn vốn sẵn đủ từ bao đời trước, đã thâm nhập Tam Muội thì sao mà làm nổi như vậy được?
Tiếng niệm Phật chẳng dứt
Cư sĩ Trầm Diên Du đời Thanh, người huyện Gia Hưng. Ông tánh tình đoan chánh, cẩn trọng, làm gì cũng hết sức, nhưng cứ liền miệng niệm Phật thao thao chẳng ngưng. Ai có cười cũng mặc.
Mấy mươi năm như thế, tự nói:
- Niệm Phật càng được thuần thục thì xử sự càng sáng suốt.
Năm bảy mươi ba tuổi, ông thị hiện bịnh nhẹ, chợt bảo người nhà rằng:
- Phật đến rồi đó, hãy đem đuốc cho ta.
Tự tay thắp hương mà thác.
(theo Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Cư sĩ Hồ Liên Quy bảo:
“Niệm Phật càng được thuần thục thì xử sự càng sáng suốt. Ðây thật là động tịnh đều giống hệt như nhau, là bậc thâm nhập tam muội. Người dốc lòng mong cầu danh lợi động đến liền nói: ‘Tôi phân tâm xử sự đâu có rảnh mà niệm Phật. Ðến khi sanh tử xảy đến, đành phải trắng tay, là lỗi của ai vậy?”
Xin hãy mạnh mẽ tỉnh ngộ để gấp bắt chước gương này.
Ở một mình niệm Phật
Cư sĩ Bùi Vĩnh Ðộ đời Thanh người huyện Thái Châu tỉnh Giang Tô. Ông sống bằng nghề nông, tánh tình điềm đạm, không ham thích gì, cứ thấy việc lành là làm. Từ nhỏ đã dốc trọn lòng tin tưởng vào Phật pháp, ăn chay trường, định thời khóa niệm Phật không gián đoạn.
Sau đấy, ông thọ trì Tam Quy Ngũ Giới, hành trì nghiêm khiết, chưa hề khuyết lậu. Vợ cũng niệm Phật, thọ giới, tuy cùng ở chung một nhà, nhưng đối đãi với nhau trinh bạch. Chỉ có một con gái, cũng ăn chay niệm Phật. Về sau, cô này xuất gia thọ Cụ Túc giới, biến nhà thành am.
Ông dạy vợ con cùng tu Tịnh nghiệp. Ông lập riêng một căn tịnh thất, ở một mình niệm Phật hơn mấy mươi năm. Lúc tuổi gần thất tuần, chợt bảo thân tộc rằng:
- Năm ngày sau nữa ta sẽ chia tay, xin hãy thiêu hóa giùm cái xác thừa. Thân này như huyễn, đừng lầm lẫn mà tiếc nuối!
Ðến kỳ, ông trì danh tọa hóa. Trà tỳ, thu được hơn trăm viên xá lợi ngũ sắc lóng lánh.
(theo Nhiễm Hương Tục Tập)
Nhận định:
Cả nhà thờ Phật, vốn có thể đồng tu. Do con gái đã xuất gia biến nhà thành am nên ông cất một tịnh thất, ở một mình niệm Phật; không qua lại với vợ con nữa là ái căn đã đoạn, thân còn tại gia mà tâm đã xuất gia vậy!
Thân đau tâm niệm
Ðời Thanh, cư sĩ Châu Quang tự Tây Liên, sanh ở Giang Ninh. Ông tánh thuần hậu, nhạt nhẽo danh lợi, tuy gia thế quý hiển nhưng không quen thói hưởng thụ.
Tuổi trung niên, ông trường trai thờ Phật, mỗi ngày tụng Phật hiệu cả vạn tiếng để cầu sanh Tịnh Ðộ. Anh em, bè bạn gặp nhau, hàn huyên đôi câu xong là ông liền đem pháp môn Tịnh Ðộ khuyên đi, khuyên lại. Ông quyên tiền in lại bộ Di Ðà Sớ Sao, đích thân dò lỗi, sửa sai để tác phẩm này được lưu truyền rộng rãi.
Tuổi già, thần khí suy yếu nhưng niệm Phật càng thêm hăng hái. Ðột nhiên, ông bị mắc bệnh sa đì (còn gọi là thoát vị, tức chứng hernia) rất nặng, nhưng chẳng hề bỏ lỡ việc chấp trì danh hiệu. Bịnh ngày càng nặng thêm, có người thấy thế khen ngợi [tinh thần niệm Phật của ông], ông bảo:
- Trong những khi bị đau như vậy, lúc mới đầu tôi cũng đau đớn, khó chịu đựng nổi, nhưng rồi nghĩ đến thân này đã là giả thì khổ cũng chẳng phải là thật, huống hồ mức độ tinh và thô giữa thân và tâm đã rõ rành rành!
Cái thân kia thống khổ tôi chẳng biết làm cách nào; tâm tôi tự niệm Phật thì cái thân kia cũng chẳng làm gì được. Lúc mới đầu còn thấy có tâm và thân đối lập nhau, dần dần chỉ biết có tâm, chẳng còn biết có thân, thống khổ cũng dần dần hết!
Sau ông niệm Phật mà tịch.
(theo Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Niệm Phật trị được trọng bịnh vạn kiếp sanh tử, huống hồ đã biết là thân giả, khổ chẳng thật thì sẽ nhẫn được điều khó nhẫn, chẳng những thống khổ sẽ tự tuyệt, mà đến lúc vãng sanh thì do trong lúc bịnh nguy ngập đau đớn đã làm chủ được, lúc lâm chung vãng sanh ắt sẽ tự chủ được!
Giác chiếu niệm Phật
Cư sĩ Phạm Dụng Hòa tự Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Lúc nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất có hiếu. Lúc cha mẹ bịnh, trước sau, ông đã cắt thịt bắp tay hòa với thuốc trị lành bịnh cho cha.
Bước vào tuổi tráng niên, cha mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần duyên, tu tập huyền công (cách tu hành của Ðạo giáo) hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm. Về sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhất chí kiên trì, thậm chí những thứ làm bằng lông thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều mình đã tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành, thí thuốc, phóng sanh, giúp đỡ người nghèo, chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo bịnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu gì.
Về sau, ông bế quan niệm Phật suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên yên tịnh thì cách tu huyền thuật trước kia chợt hiện ra, nhận thấy khí Thiên Ðịa cuồn cuộn, mù mịt trong không trung xông thẳng vào miệng, mũi, chạy thẳng vào huyệt Ðan Ðiền, hòa hợp với nguyên khí của chính mình, [cảm thấy] khinh an chẳng thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa bé cao mấy tấc từ đảnh đầu vọt ra, lãng đãng trước mặt; được một chốc, nó lại theo đảnh đầu trở vào.
Từ đấy trở đi, mỗi khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong niệm thì liền có đứa bé bước ra, trở vào như trên. Thoạt đầu, ông rất vui; lúc sau, ông chợt nghĩ:
- Ðây há chẳng phải là năm mươi thứ Ấm Ma như đã nói trong kinh Lăng Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc thì sẽ bị lạc vào quần ma! Niệm Phật chí tại Tây Phương, thánh cảnh chẳng hiện, sự này ích chi?
Ngay khi đó, ông liền giác chiếu, chánh niệm hiện tiền, đứa bé chẳng xuất hiện nữa. Ðối với yếu chỉ Duy Tâm, ông khế ngộ sâu xa; Tín - Hạnh - Nguyện lực càng thêm thuần thục. Thường bảo với mọi người rằng:
- Ðối với cửa ải hiểm yếu bậc nhất trong cuộc đời này nếu có chút phần chẳng rõ thì sẽ lạc vào bàng môn. Vì vậy, tu hành chẳng thể không thận trọng vậy!
Chợt ông kết liễu mọi việc, dặn dò, từ biệt bè bạn, ngồi niệm Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu vẫn còn nóng, thọ sáu mươi ba tuổi.
(theo Nhiễm Hương Tục Tập)
Nhận định:
Từng tu tập huyền công của ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên khỏi bị đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện tiền, quần tà tự diệt.
Mật hạnh tinh tấn
Cư sĩ họ Trần đời Thanh, không rõ tên là gì, là chú họ của các ông Thế Anh, Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng dậy, ông thắp hương yên lặng tụng kinh, niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng đều chẳng gián đoạn. Suốt mấy năm như thế người nhà chẳng hay vì ông hành mật hạnh.
Trước khi mất ba tháng, ông tự bảo đã đến lúc sắp mất, người nhà thấy ông không bịnh tật gì nên không tin. Ba ngày trước khi mất, ông thị hiện bịnh nhẹ, vẫn đi đứng như thường. Ðến ngày, ông tọa hóa, người nhà kêu khóc; ông bèn mở mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta đi đây!” Lại yên lặng, thân bốc ra mùi hương lạ ba ngày mới hết.
(theo Vãng Sanh Cận Nghiệm Lục)
Nhận định:
Cổ nhân mật hạnh, dù nóng hay lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà cũng chẳng hay biết. Nay thì hành nhân rêu rao khoe mẽ nhưng một ngày nóng mười ngày lạnh, cho nên người niệm Phật thì nhiều mà kẻ vãng sanh lại ít. Hãy dè dặt, hãy thận trọng!
Dụng công mãnh liệt
Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề nấu rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật.
Một người con của ông bịnh lao, niệm Phật qua đời, mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự tuyệt người khuyên tục huyền:
- Có con nhưng nó đã mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm gì? Chí tôi xuất thế, lẽ nào còn thèm thuồng có người nối dõi ư?
Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:
- Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.
Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bịnh thổ huyết, tâm sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Ðến lúc bịnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:
- Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, tôi phải dũng mãnh làm theo!
Ông liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðêm ngày niệm Phật chẳng sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay sao?” Ông nói:
- Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bịnh chẳng được an nhàn; nay do bịnh mới được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm sao còn mệt nhọc được?
Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:
- Lúc này, ngươi phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ý cầu về Tây Phương thì hơn.
Ông liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu còn miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có tiếng nói:
- Thân ông chưa sạch!
Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:
- Tôi đã đến được Tịnh Ðộ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!
Ông chỉ vào thân mình bảo:
- Ðây chẳng phải là thân ta!
Một lát, lại bảo:
- Phật đông nghẹt cả nhà!
Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi.
(theo Tục Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Ðoạn được rượu thịt là tham độc đã hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân độc đã hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đã đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dõi là si độc đã hết.
Vì vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thối thất cái tâm ban đầu; dù bịnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù vì nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng công mạnh mẽ, lại được trợ duyên nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du cõi Sen, thật đáng làm gương vậy!
Trợ niệm đắc lực
Cư sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Ðồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.
Ông tham dự Liên Xã niệm Phật. Vì bị bịnh nên lại sát sanh, dần dần xa lìa các liên hữu. Sau bịnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét mình không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước Phật, tận tình bày tỏ, dốc lòng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề chẳng tái phạm.
Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết công năng trì danh của ông nông cạn nên trước hết vì ông thỉnh người trợ niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy quang minh. Ðến canh hai, liên hữu sắp ra về, chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đã có hiệu lực. Ông liền bảo:
- Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!
Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:
- Tôi nay đã đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!
Mắt ông nhìn chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến khi thân ông đã lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Ðến trưa hôm sau, đảnh đầu ông vẫn còn ấm, thọ ba mươi tuổi!

Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Trì giới niệm Phật  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trì giới niệm Phật    Trì giới niệm Phật  Icon_minitimeTue Jun 07, 2011 3:10 am

(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)
Nhận định:
Công phu trì danh nông cạn mà được vãng sanh là do sức liên hữu trợ niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hãy đề xướng rộng rãi. Nếu như không có liên hữu thì xin hãy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi vãng sanh vậy!
Bỏ tụng chú để niệm Phật
Cư sĩ Trương Trân Ngọ thời Dân Quốc, sang Nhật học Y và học Mật Tông. Sau ông mắc bịnh thũng, nghiệp cảnh hiện tiền. Lúc bình thường, ông trì chú thấy có linh nghiệm, lúc này trọn không có hiệu quả gì. Ông bèn chuyên niệm Phật thì nghiệp cảnh mới tiêu diệt.
Ông liền dẹp hết thuốc men, nhất tâm trì danh. Vợ ông khuyên hãy nên ăn uống, ông bảo:
- Bà đừng khuấy nhiễu tôi, chỉ nên giúp tôi niệm Phật và thỉnh đạo hữu họp lại trợ niệm. Tôi sẽ đi trong ngày hôm nay.
Ðạo hữu đến, đồng thanh trợ niệm. Ông cũng nương theo đó, niệm theo rõ ràng; đoạn kết ấn, niệm Phật mà qua đời.
(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)
Nhận định:
Lâm chung nghiệp cảnh hiện tiền, há chẳng phải là để thấy trước ác đạo đó chăng? Lúc ấy, trì chú hoàn toàn chẳng có công năng gì, may nhờ chuyển sang niệm Phật và nhóm đạo hữu lại trợ niệm thì nghiệp mới tiêu, được vãng sanh. Những kẻ bỏ Tịnh Ðộ để tu Mật, khá nên lấy đó làm gương!
Từ biệt mọi người, tọa hóa
Cư sĩ Lý Ngoa, tự Tế Hoa thời Dân Quốc, người huyện Như Cao tỉnh Giang Tô; tốt nghiệp từ Trắc Hội Học Ðường (4) [(4) Trắc Hội Học Ðường: trường dạy ngành đo lường, vẽ bản đồ.]
Năm Dân Quốc thứ nhất (1911), ông được cử về làm việc ở Trắc Lượng Cục của Lục Quân, gia nhập Ðồng Minh Hội. Khi cách mạng lần thứ hai thất bại, ông bị tống giam; lúc sắp bị xử tử, ông được người cứu khỏi, được phóng thích. Tuy vẫn phục vụ trong quân ngũ, nhưng ông ăn chay niệm Phật, dù nóng hay lạnh vẫn chẳng gián đoạn.
Từ chiến dịch Bắc Phạt trở về, ông từng đảm nhiệm các chức vụ: nghị trưởng huyện nghị hội và cục trưởng các cục kiến thiết, tài chánh v.v…
Mùa Xuân năm Dân Quốc 22 (1933), ông quy y Ấn Quang đại sư, được đặt pháp danh là Trí Thoát. Từ đấy, ông chuyên tu Tịnh nghiệp, thời khóa sáng tối đều tụng một cuốn Di Ðà, niệm Phật cả vạn tiếng. Ông nghiên cứu sâu sắc kinh điển Ðại Thừa, hạnh lẫn giải đều sâu, hoằng dương Tịnh Ðộ, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trọn đời chẳng lười nhác.
Sau khi qua Ðài Loan, ông sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn ở Ðài Bắc, soạn cuốn Phổ Khuyến Tịnh Nghiệp Ðồng Nhân Phát Khởi Tổ Chức Trợ Niệm Vãng Sanh Ðoàn Văn để đề xướng việc trợ niệm.
Ngày hai mươi lăm tháng Hai năm Dân Quốc 51 (1962) là ngày pháp hội định kỳ của Niệm Phật Ðoàn, ông lãnh chúng niệm Phật. Sau bữa ăn trưa, ông giảng đại ý kinh A Di Ðà. Ðến hai giờ năm mươi phút giảng xong, ông từ biệt đại chúng:
- Tôi sắp đi rồi, mọi người hãy chăm chỉ niệm Phật!
Rồi ông tọa hóa giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Ðúng ba giờ năm phút, tay ông kết Di Ðà ấn như đang nhập Thiền Ðịnh. Ngày hôm sau, nhập liệm, toàn thân ông mềm mại, vẻ mặt như còn sống. Ngày mồng Bốn tháng Ba trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi, thọ bảy mươi chín tuổi.
(theo Lý Tế Hoa Cư Sĩ Di Tập và các báo Liên Hợp, Dân Tộc v.v…)
Nhận định:
Ấn Quang đại sư nói:“Chịu giúp người tịnh niệm vãng sanh thì cũng sẽ được hưởng báo có người trợ niệm!”. Ông Lý sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn, đề xướng trợ niệm nên được liên hữu đại chúng trợ niệm vãng sanh.
Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo nên ông chọn đúng vào lúc pháp hội định kỳ để tọa hóa, ngõ hầu đại chúng cùng thấy cùng tin, gấp gáp bắt chước theo đồng sanh Tây Phương vậy!
Chánh trợ song tu
Cư sĩ Tử Bình Trần Tự Quân thời Dân Quốc, là người huyện Ðịnh Hải, tỉnh Triết Giang. Lúc chưa tốt nghiệp đại học Pháp Chánh ở Thượng Hải, bố vợ ông đã mở sẵn xưởng dệt Thiên Nhất ở Tân Long Hoa, Thượng Hải, giao cho ông làm đổng sự trưởng.
Năm Dân Quốc 11 (1922), tốt nghiệp xong, ông vừa đúng hai mươi ba tuổi. Do nghiên cứu kinh luận Tịnh Ðộ, ông liền quyết tâm bỏ thuốc lá, rượu chè, cờ bạc, đồ mặn để trường trai lễ Phật. Năm hai mươi bảy tuổi, ông quy y với lão pháp sư Hưng Từ ở núi Thiên Thai, cầu truyền ngũ giới.
Mỗi ngày ông lo kinh doanh, tối đến tụng kinh, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Thương những người nghèo bị bịnh, không đủ sức trị bịnh, ông liền cùng chú lập ra Bảo Khang Trai để thí thuốc và chữa bịnh rộng rãi. Ông còn phát động việc thành lập Thượng Hải Bần Bịnh Cứu Tế Hội, thay mặt gia đình đưa người bịnh vào bịnh viện chữa trị để những người bịnh đều được lành.
Năm Dân Quốc 21 (1932), quê ông bị đại hạn, ông liền cùng những đồng hương lo vận chuyển lương thực chẩn tế những người đói nghèo. Năm sau, gặp phải tai nạn bão lốc, nhiều căn nhà bị sụp đổ, ông liền xin hội Cứu Tế phát gạo chống đói.
Năm Dân Quốc 38 (1949), ông ngầm rời khỏi Ðại Lục, trốn sang Hương Cảng rồi sang Ðài Loan. Năm Dân Quốc 42 (1953), ông quy y đại sư Ðạo An, được đặt pháp danh là Trí Thặng. Ông liền chọn mua đất, xây dựng chùa Tùng Sơn, thỉnh ngài Ðạo An làm trụ trì, tự mình làm giám viện. Ðến năm Dân Quốc 55 (1966), đại điện lạc thành; thỉnh pháp sư Linh Căn tiếp nhận chức Giám Viện kiêm phó trụ trì, ông tiếp tục xây dựng điện đường hai bên và liêu phòng để tạo thành chốn tùng lâm vĩnh viễn cho mười phương.
Ông lại chắt mót tiền xây dựng biệt thự Tịnh Liên ở sau chánh điện, thỉnh những vị cư sĩ như Mao Dịch Viên… gồm chín người cùng ở để cộng tu. Ông thường lãnh đạo Tinh Tấn Phật Thất để cầu sanh Cực Lạc. Ðể tiếp độ rộng rãi những người sơ cơ, ông Mao soạn thuật cuốn Niệm Phật Tam Yếu. Ông liền đứng ra in đến mười vạn hai ngàn cuốn, gởi tặng khắp nơi trong ngoài nước để quảng kết tịnh duyên.
Ðể mình lẫn người đều được lợi, ông Mao lại biên soạn, kết tập bộ Tịnh Ðộ Tùng Thư; Trần Cư Sĩ liền phát động các vị đại đức, các chùa miếu, các nhà xuất bản lớn trong ngoài nước hoan hỷ hỗ trợ ấn loát hoặc kết ước hỗ trợ. Sách in ra và số tiền dành cho ấn loát còn dư, ông bèn giao cho Ðài Loan Ấn Kinh Xứ lưu thông và tục bản để tác phẩm ấy được hoằng dương rộng rãi.
Tháng Tư năm Dân Quốc 62 (1973), ông phát tâm bế quan ba năm để chuyên tu Tịnh nghiệp. Ðến khi mãn kỳ bế quan, ông lại càng thêm tinh tấn. Ngày mồng Bốn tháng Chạp năm Dân Quốc 71 (1982), đột nhiên ông thị hiện mắc bịnh nhẹ; mới vào bịnh viện được một tuần, ông đã trở về biệt thự tịnh dưỡng, ăn uống như thường. Ðến ngày mồng Bốn tháng Giêng năm Dân Quốc 72 (1983), ông chợt bỏ không ăn sáng, há to miệng niệm Phật. Ông Mao liền hối đại chúng trợ niệm. Ðến một giờ trưa, miệng ông mới dần khép lại; mặt hiện vẻ tươi cười, an tường về Tây, thọ tám mươi bốn tuổi.
Mọi người tiếp tục thay phiên trợ niệm cho đến khi toàn thân lạnh hết nhưng đảnh đầu vẫn còn ấm. Ðến giữa trưa ngày hôm sau làm lễ đại liệm, toàn thân vẫn mềm mại. Ngày mồng Mười lúc làm lễ công tế, da dẻ ông trông còn tươi tắn mịn hơn lúc còn sống. Trà tỳ thu được rất nhiều xá lợi.
(theo tạp chí Sư Tử Hống, bộ 20, kỳ 9)
Nhận định:
Cả một đời lấy Tín - Nguyện - Hạnh làm Chánh Hạnh, lấy việc làm lành, dựng chùa làm Trợ Hạnh. Ông đã tích tụ nhân duyên phước đức thiện căn rất nhiều. Xả báo an tường, vẻ mặt tươi vui thì ắt phải được trông thấy Phật đến tiếp dẫn. Ðảnh đầu ấm, thân mềm mại, tươi tắn hơn lúc còn sống, xá lợi rất nhiều thì ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh, thật đáng nên noi gương!
Càng bịnh càng tinh tấn
Cư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân Quốc, người huyện Phụng Hóa, tỉnh Triết Giang; tánh tình trung hậu, thuần phác.
Năm Dân Quốc 35 (1946), ông đến Ðài Loan, kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc Quang và xưởng dụng cụ giao thông Trung Lập khá thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967), ông được đồng hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Ðài Bắc nghe hòa thượng Tịnh Không giảng kinh; ông liền theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của Phật Pháp. Ông quy y với lão hòa thượng Quảng Khâm ở Thổ Thành và trưởng lão Sám Vân ở Thủy Lý, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới.
Mùa Ðông năm Dân Quốc 67 (1978), ông đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương Minh để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm trì giới luật, chuyên tu Tịnh nghiệp, niềm tin vững vàng, ý nguyện thiết tha cầu sanh Tây Phương. Ông thường cúng Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, bố thí làm phước chẳng tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở Tam Giáp Hoành Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng (người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm), lãnh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để cùng tu.
Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), vì bịnh tật, ông phải về nhà chữa trị, nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng lười. Ðầu tháng Ba năm Dân Quốc 72 (1983), chợt ông bị bí đường tiểu tiện, trị liệu cách nào cũng vô hiệu, phải đưa vào bịnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Hòa để chữa. Tuy đau đớn tột bậc, trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai mươi mốt tháng Ba, ông chợt bảo người con trưởng đang trông bệnh rằng:
- Từ ngày mai các con đừng có đi đâu!
Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ đến khám toàn thân, thấy tất cả đều bình thường, dặn dò ông phải nghỉ ngơi chu đáo, ông Ổ bảo:
- Hiện tại tôi rất thoải mái, cảm ơn ngài!
Lát sau, ông bảo đứa con gái út nâng đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông dựa. Cô hỏi:
- Có chuyện gì làm ba không được thoải mái hả?
- Không có!
Ðúng mười một giờ trưa, ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi dậy, chắp tay; há miệng niệm Phật mà qua đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn thể quyến thuộc đều vây quanh cao giọng trợ niệm. Trưởng lão Sám Vân và các vị pháp sư, cư sĩ và đạo sư của Tịnh Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính ra hơn bốn mươi người luân phiên trợ niệm. Ðến khoảng sáu giờ tối, toàn thân đều lạnh, chỉ còn mỗi đảnh đầu là ấm.
Trợ niệm đến chín giờ rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. Vì tứ chi của ông đã cứng đờ nên trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay, chợt ngửi thấy mùi hương thanh khiết bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau đại liệm, hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi đẹp đẽ hơn lúc sống.
Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm, quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm Phật bốn mươi chín ngày đã nghỉ rồi vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng tới.
(theo tạp chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)
Nhận định:
Một phen nghe giảng kinh liền theo Phật môn, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao kiếp thành thục.
Lập Tịnh nghiệp lâm để cộng tu là người tự lợi, lợi tha. Càng bịnh càng tinh tấn là mượn bịnh để tiềm tu. Chợt dặn dò ngày mai đừng đi đâu là biết trước thời khắc.
Mỉm cười chắp tay ắt là thấy Phật hiện đến tiếp dẫn. Khiến cho quyến thuộc thường nghe tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng lại để họ biết là mình đã vãng sanh trong thượng phẩm, nhằm khiến họ đều tín nguyện sanh Tây. Phàm những ai tuổi già lắm bệnh, xin hãy bắt chước ông tinh tấn!
Tự hành, dạy người khác
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Hư hay Tuyết Tăng; người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Ðông. Tự bé, ông đã dĩnh ngộ, hiếu học.
Ông chuyên học về pháp luật chánh trị và học cả Trung Y, nghiên cứu Phật học: Giáo, Thiền, Tịnh, Mật ông đều thường tu trì. Ông từng giữ chức giám ngục của huyện Lữ, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay.
Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh tông là Ấn Quang đại sư, được ban hiệu là Ðức Minh. Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh nghiệp. Sau ông đáp lời mời, làm bí thư cho vị chủ nhiệm quản trị nha thờ phụng Ðại Thành Chí Thánh Tiên Sư (Khổng Tử).
Ông theo chủ nhiệm Khổng Thượng Công (Khổng Ðức Thành) thiên di theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ Lan thuộc núi Ca Nhạc. Mỗi sáng sớm, ông lên chùa Vân Ðảnh để lễ tụng, niệm Phật. Ít lâu sau, ông lãnh trách nhiệm giảng dạy cho Phật Học Giảng Diễn Hội của chùa mấy năm, người tin theo rất đông. Năm Dân Quốc 35 (1946), theo Khổng Thượng Công trở về Nam Kinh, ông thường giảng kinh tại chùa Phổ Tế và Chánh Nhân Liên Xã.
Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Ðài Loan, ngụ tại thành phố Ðài Trung. Vừa mới sắp xếp công vụ xong, ông đã tìm được chùa Pháp Hoa làm cơ sở hoằng pháp và lập phòng chẩn mạch Trung Y, lập Bồ Ðề Y Viện và Thí Y Hội v.v… để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn quần cơ đồng tu Tịnh Nghiệp. Ông trù bị, tổ chức và thành lập Ðài Trung Liên Xã và đoàn thể hoằng pháp, diễn giảng các kinh điển của đạo Nho và đạo Thích.
Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những gia đình liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng rộng rãi; tòa giảng kinh của ông mở rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v… Ông còn khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả Tam Ðài (Ðài Bắc, Ðài Trung và Ðài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh.
Mỗi năm, cử hành Phật thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân chủ trì, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và vấn đáp, soạn các chương trình phát thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh. Về trước tác có: A Di Ðà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú kinh Di Ðà để những người kém hiểu biết lãnh hội được ý nghĩa sâu xa), Ðại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Tòa (tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên chuyên ngành Phật học) gồm sáu cuốn; Phật Học Vấn Ðáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn v.v… hóa độ nhân gian.
Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được bình đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau ông nghỉ việc để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người khác tin sâu nhân quả, già dặn, chắc thật niệm Phật. Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông bảo đệ tử hầu cận:
- Ta sắp đi đây!
Ðến sáng hôm sau, ông niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn, dặn dò đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch, thọ chín mươi bảy tuổi. Lúc trà tỳ, thu được hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc.
(theo Lý Công Tuyết Hư Lão Cư Sĩ Lược Sự)
Nhận định:
Mỗi sáng đều lễ tụng niệm Phật, đấy là tự hành chuyên tu. Thường giảng kinh thuyết pháp, tổ chức Liên Xã và Hoằng Pháp Ðoàn, tổ chức rộng rãi các cơ sở truyền giáo, thường nhóm chúng niệm Phật, cử hành Phật thất; đấy đều là vì làm cho người khác chuyên tu. Tuy là một vị cư sĩ tại gia, nhưng có thể tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh Nghiệp, đồng sanh Cực Lạc, thật đúng là gương mẫu!
Lâm chung thập niệm
* Ông Trương Thiện Hòa đời Ðường, làm nghề giết trâu. Lâm chung, thấy bầy trâu tranh nhau đến đòi mạng, ông sợ quá, gọi vợ:
- Mau thỉnh Tăng đến cứu ta!
Tăng đến, dạy:
- Kinh nói: “Nếu có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành phải đọa ác đạo, lâm chung chí tâm đầy đủ mười niệm xưng A Di Ðà Phật thì trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc”.
Ông Trương nói:
- Ðịa ngục đến gấp quá rồi, chẳng kịp lấy lư hương nữa.
Ông bèn dùng tay trái bốc than hồng, tay phải cầm hương, hướng về Tây, dũng mãnh xưng Phật hiệu, chưa đủ mười tiếng, đã nói:
- Trâu đi, Phật đến, tôi được ngồi tòa báu rồi!
Mỉm cười mà thác.
(theo Phật Tổ Thống Ký)
* Ông Thí Tịnh Nghiêm đời Thanh, người huyện Hoa Ðình, tánh đoan chánh, cẩn trọng, làm gì cũng chu đáo, cẩn mật. Ðược ai nhờ đều tận tâm, thân tộc nhiều người phải cậy vào ông. Chợt bị bịnh ngặt nghèo rất đau khổ, anh họ là ông Trịnh Huệ Am xót thương nói:
- Chú bịnh nặng quá, sao chẳng chịu niệm Phật? Kinh nói: “Lâm chung mười niệm cũng được vãng sanh”.
Ông Thí nói:
- Em hận lúc thường ngày chẳng biết niệm Phật, nay chẳng niệm nổi, biết làm sao đây?
Rồi khóc ròng. Ông Trịnh bảo:
- Không có cách nào hết! Chú nghe tôi niệm, trong tâm tưởng niệm cũng được!
Liền xướng danh Phật hiệu rõ ràng, ông Thí cũng cao giọng đọc theo. Vừa mới được chừng mươi lần, chợt bảo:
- A Di Ðà Phật và các Bồ Tát đều ở ngay trước mắt!
Nói xong liền mất.
Nhận định:
Niệm Phật cốt yếu chẳng phải do thời gian niệm đã lâu, mà quý tại lòng tin chuyên dốc. Kinh Pháp Tập Yếu Lãnh dạy:
“Nếu có người trong trăm năm lười nhác, thiếu tinh tấn thì chẳng bằng người dũng mãnh hành tinh tấn trong một ngày”.
Vì thế, vô luận là thiện hay ác đều có thể do mười niệm lúc lâm chung được vãng sanh, chẳng ngờ gì. Nhưng những người ấy đều là do căn lành trong quá khứ đến nay thành thục nên mới gặp được thiện tri thức khuyên niệm Phật, và cũng do tâm sợ khổ nên sức tín hạnh nguyện dũng mãnh thành ra tương ứng với từ nguyện lực của Phật, cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn!
Nếu không, chỉ sợ rằng nghiệp chướng lôi kéo, thiện hữu khó gặp, bệnh khổ bức bách, chánh niệm khó thành. Thập niệm tuy dễ, thật khó mong gặp được. Xin hãy sớm lo liệu tư lương mới là điều quan trọng nhất!
Làm việc nặng vẫn niệm Phật
* Ông Hoàng Ðả Thiết đời Tống, người Ðàm Châu. sống bằng nghề rèn. Thấy du phương Tăng đi đến, ông mời vào, dâng trà. Thưa mình vốn dĩ nghèo khổ, cầu thầy chỉ dạy cách tu hành. Tăng liền dạy:
- Pháp môn Trì Danh chẳng tốn hoa, tiền, chẳng trở ngại làm lụng. Nếu suốt một đời trì niệm chẳng sai sót thì lúc lâm chung, Phật ắt sẽ tiếp dẫn vãng sanh cõi ngài, chẳng có các điều khổ, chỉ hưởng các sự vui!
Ông Hoàng mừng lắm, bèn tuân theo lời dạy tu hành. Mỗi lúc đập sắt, ông niệm Phật không ngớt tiếng. Vợ bảo:
- Rèn sắt đã khổ cực sẵn còn đèo thêm niệm Phật, có phải là càng khổ hơn nữa không?
Ông Hoàng đáp:
- Pháp này cực hảo: Hằng ngày ngồi bên lò thấy lửa nóng, nhưng niệm Phật chẳng thấy nóng. Ðập sắt thấy đau tay, nhưng niệm Phật rồi không chẳng thấy đau nữa!
Mấy năm sau, một hôm, ông chợt tắm gội, thay áo, bảo vợ:
- Hôm nay, tôi phải đi về nhà đây!
Vợ đáp:
- Ðây không phải là nhà ông sao? Nhà ông ở chỗ nào cơ chứ?
Ðáp:
- Nhà tôi ở Tây Phương.
Vợ cười bảo:
- Vậy ông đi bình an nghe!
Ông bèn đập sắt, niệm Phật như thường. Lát sau, bèn nói kệ:
Binh binh, bang bang,
Luyện lâu thành gang
Thái bình sắp đến
Ta về Tây Phương
Rồi cầm chùy đứng yên mà mất, mặt chẳng đổi sắc. Mùi hương lạ ngào ngạt, thiên nhạc rền trời; ai nấy đều nghe.
(theo Phật Tổ Thống Ký)
* Ông Lại Tường Lân thời Dân Quốc, người huyện Hưng Quốc, tỉnh Giang Tây; làm nghề nông, hay uống rượu. Năm ông ngoài sáu mươi tuổi, con trai chết sớm, ông phải lãnh nuôi vợ góa, con côi, cực nhọc cày cấy để kiếm sống.
Ông chán nản thế gian phiền khổ sâu xa, nghĩ mong xuất ly, nghe cư sĩ Lại Thiền Dung giảng pháp môn Tịnh Ðộ liền trường trai niệm Phật, chuyên chí vãng sanh. Lâu sau, niệm càng ngày càng thuần thục, tuy suốt ngày phải làm lụng mà niệm Phật chẳng gián đoạn. Người làng đều dùng câu A Di Ðà Phật để gọi ông, ông cũng ứng tiếng đáp: “A Di Ðà Phật!”
Lúc ngoài bảy mươi tuổi, chợt có bịnh thũng nhẹ nơi chân, ông liền sai cháu hướng về Tây bày biện hương án, nói:
- Cảnh giới Tây Phương thật đẹp. Cháu coi kìa! Có biết bao nhiêu là hoa sen! Hôm nay ông sắp về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Cháu hỏi:
- Chân ông bị thũng làm sao đi được?
Nói:
- Chẳng phải là thân đi mà là tâm đi!
Lúc đang thắp hương, ông ngồi xếp bằng, hướng mặt về Tây, niệm Phật qua đời.
(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)
Nhận định:
Người tu Tịnh Nghiệp chẳng phân biệt là nam, nữ, quý, tiện, hễ tin tưởng sâu xa thì được vào, thật sự tích lũy công lao thì được vãng sanh. Hai vị trên tuy làm lụng bận rộn, chưa hề thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhưng lúc làm lụng niệm Phật không gián đoạn nên công niệm Phật đều đạt đến mức thuần thục, đến thời là vãng sanh. Những ai bảo mình quá bận rộn, chẳng rảnh rỗi để niệm Phật thì xin hãy lấy đó làm gương!
Sám hối niệm Phật
Ông Ngô Quỳnh đời Tống là vị Tăng hoàn tục, làm nghề đầu bếp, buôn rượu, bán thịt. Mỗi khi ông giết những gà, vịt v.v… đều nói: “Con đấng A Di Ðà Phật, khéo thoát thân này nghe!”, rồi niệm tiếp mấy câu Phật hiệu. Lúc xẻ thịt cũng niệm Phật không ngớt.
Ông thường dạy người tụng kinh niệm Phật. Mắt ông chợt nảy cái u to như quả trứng gà; ông mới hoảng sợ, tách rời vợ con, cất một cái am tranh, ngày đêm niệm Phật, tu sám. Sau, ông bảo người trong thôn:
- Giờ Tuất ngày mai, Quỳnh tôi sẽ đi.
Chiều hôm sau, ông bảo các đạo hữu rằng:
- Ðã đến lúc rồi, hãy gắng niệm Phật giúp nhau!
Viết bài kệ xong, ông chắp tay niệm Phật, chợt lớn tiếng nói: “Phật đến rồi”, liền tọa hóa.
(theo Long Thư Tịnh Ðộ Văn)
Nhận định:
Hoàn tục phạm giới, lẽ đâu lại đáng nêu gương? Nhưng vì mắc bệnh, ông hoảng sợ, tách rời vợ con, niệm Phật tu sám nên lại được vãng sanh. Ðiều này đủ chứng minh lời nhận định trong sách Linh Phong Tông Luận:
“Tuy vì lầm lẫn nên trót làm hạnh ác nhưng mau chóng đoạn tâm tương tục, khởi lòng ân cần, thâm trọng sám hối thì nhờ sức sám hối cũng được vãng sanh!”
Những người vì lầm lẫn tạo ác hạnh xin hãy gấp bắt chước, đừng nên cam chịu đọa lạc!
Tu thiện niệm Phật
Ông Ngô Mao đời Thanh là đầy tớ nhà họ Ngô ở Thanh Dương. Trì trai niệm Phật, kiêm tu các điều lành.
Lúc quân Thanh vượt sông, cả nhà họ Ngô chạy trốn hết, mình ông Mao ở lại giữ nhà, bị quân Thanh đâm bảy nhát thương chết đi. Lúc đã yên, chủ trở về, ông Mai tỉnh lại bảo:
- Do túc nghiệp, lẽ ra tôi phải làm thân heo bảy đời, nhờ trì trai niệm Phật nên bảy nhát thương đó tiêu tan oan khiên, niệm Phật đến tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương!
Nói xong, chắp tay niệm Phật qua đời.
(theo Quả Báo Văn Kiến Lục)
Nhận định:
Niệm Phật tu thiện nhưng bị chết thảm; nếu như không sống lại để tự trình bày thì làm sao biết được ông đã chuyển báo nặng trong thân sau thành báo nhẹ hiện đời, được Phật tiếp dẫn vãng sanh?
Phàm những ai làm lành niệm Phật mà gặp nghịch cảnh hãy nên tỉnh ngộ, mừng rỡ và càng thêm tinh tấn!
Tỳ, thiếp đồng tu
Ðời Tống, Việt Quốc phu nhân Vương thị là vợ của Hình Vương (chú của Tống Triết Tông). Bà hướng dẫn bọn tỳ, thiếp đồng tu Tịnh Ðộ ngày đêm không gián đoạn.
Chỉ có một nàng thiếp biếng nhác nên bị đuổi bèn hối hận, buồn bực, ra sức tinh tấn lâu ngày chẳng nhọc mỏi. Cô chợt bảo các nàng thiếp khác: “Ðêm nay tôi sẽ sanh Tây!”
Trong đêm, mùi hương lạ ngập tràn cả nhà, không bịnh gì mà mất. Sáng ra, có người thiếp khác báo với phu nhân:
- Ðêm qua, tôi nằm mộng thấy cô thiếp ấy bảo tạ ơn phu nhân, nhờ được phu nhân quở dạy nên được sanh về Tây Phương, cảm đức vô lượng!
Phu nhân nói:
- Nếu khiến ta cũng mộng thấy thì ta mới tin!
Ðêm đó, bà mộng thấy cô thiếp đã chết đến tạ giống hệt như trên; hỏi có đến được Tây Phương chăng, cô thiếp bảo được! Cô liền đi trước dẫn đường, thấy một cái ao lớn: hoa sen trắng, hồng, lớn, nhỏ xen lẫn, có hoa tươi tốt, có hoa gãy nát. Hỏi lý do, cô bảo:
- Người tu Tây Phương trong đời vừa mới khởi một niệm thì trong ao này liền nảy một cành hoa. Do siêng năng, lười nhác khác nhau nên hoa tươi tốt hay khô héo sai khác. Tinh tấn thì hoa tươi, thậm chí to như bánh xe; lười nhác, phế bỏ thì tàn héo, thậm chí biến mất. Nếu hành lâu ngày mà chẳng ngơi nghỉ, niệm thuần thục, quán tưởng thành tựu, thân xác dù tiêu, nhưng thần thức tồn tại thì quyết sẽ sanh về nơi đây.
Bà hỏi mình sẽ sanh về chốn nào; cô dẫn đi xa mấy dặm nữa, thấy một hoa đài: vàng, ngọc chiếu sáng rực rỡ. Cô thiếp bảo:
- Ðây là chỗ sanh của phu nhân, chính là kim đài thượng phẩm thượng sanh vậy!
Liền tỉnh mộng, vui buồn lẫn lộn. Về sau, trong ngày sinh nhật, bà cầm đuốc thắp hương, đứng nhìn về hướng Quán Âm Các. Quyến thuộc tiến đến chúc thọ đã thấy bà hóa rồi!
(theo Lạc Bang Văn Loại)
Nhận định:
Vừa khởi một niệm niệm Phật thì đã trồng cành sen nơi Tây Phương, cảm ứng nhanh chóng như thế đó. Ðối với danh lợi, người ta thường ưa cầu không lúc nào ngơi, còn đối với một niệm niệm Phật đây lắm người chẳng chịu phát. Dù có phát cũng lười nhác, tiếc chẳng có thiện tri thức tùy thời răn trách ngõ hầu hối hận, bi phẫn mà tinh tấn vậy!
Trì trai niệm Phật
Ðời Tống, bà Quảng Bình quận phu nhân Bằng Pháp Tín, lúc nhỏ lắm bịnh, đến lúc gả cho Trấn Ðào Quân Thừa Tuyên Sứ Trần Tư Cung, bịnh càng nặng thêm.
Bà hướng về Từ Thọ Thâm Thiền Sư cầu cách trừ hết bịnh; sư dạy trì trai niệm Phật, bà liền tin nhận, vâng làm; dứt sạch huyết nhục, không dùng đồ trang sức, mặc áo chằm vá để chuyên tu Tịnh Nghiệp. Bà tự tụng kinh, đi kinh hành; đứng, ngồi, động, tịnh cho đến trong từng sát na, bất cứ mảy may điều thiện nào đều đem hồi hướng về Tây Phương.
Ít lâu sau bịnh đỡ dần, bà trông nom việc nhà như cũ, nhưng cũng chẳng quên niệm Phật. Suốt mười năm như thế, không lười nhác, không kiêu căng, tâm yên, thân mạnh, tinh thần càng mạnh mẽ. Bà chợt viết kệ:
Tùy duyên lãnh nghiệp mấy năm trường
Uổng kiếp trâu cày thật xót thương
Quét sạch thân tâm, mau thoát khỏi
Không ai xỏ mũi kéo lên đường
Ai đọc đến ngạc nhiên, bà bảo: “Hễ đi là về Tây, chứ có chi là lạ!” Bà liền nằm bệnh; một tối, bảo kẻ hầu:
- Thần thức ta vừa đến Tịnh Ðộ, đích thân lễ bái đấng Từ Tôn, đức Quán Âm đứng bên tả, ngài Thế Chí đứng bên hữu, trăm ngàn vạn ức Phật tử thanh tịnh cúi đầu mừng ta đã sanh về cõi ấy. Những cung điện, ao nước, rừng cây, quang minh đẹp đẽ thần diệu giống hệt như đã tả trong Thập Lục Quán Kinh không khác chút nào. Có đến mới biết, chẳng cách nào diễn tả cho các ngươi biết được nổi!
Kẻ hầu mời ông Tư Cung đến, thuật lại như vậy xong, bèn cùng chắp tay niệm Phật. Ðến sáng hôm sau, bà nằm nghiêng bên phải mà qua đời. Ba ngày sau khâm liệm, người nhà chợt ngửi thấy mùi hương tuyệt diệu. Ðến lúc trà tỳ, mở nắp quan ra coi, vẻ mặt vẫn như còn sống, thọ ba mươi sáu tuổi.
(theo Lạc Bang Văn Loại)
Nhận định:
Chúng ta suốt ngày tạo nghiệp nên bị lưu chuyển theo nghiệp, chẳng thể tự chủ. Nguyện mau trì trai niệm Phật, sớm cầu giải thoát, tránh khỏi bị người xỏ mũi lôi đi.
Miễn cưỡng niệm Phật
Cư sĩ Dư Tông Thị đời Thanh, người Từ Châu; con là Hòa Thượng Chiếu Minh trụ trì chùa Cao Mân ở Dương Châu, lập thất đón đến ở. Bà nhớ nhà quá, bèn bảo Hòa Thượng là phải về ngay lo việc nhà.
Sư giảng cho bà nghe pháp Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã; khuyên mẹ nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Mẹ chẳng tỉnh ngộ, sư liền tránh mặt, chẳng gặp; van nài cũng chẳng đến. Không biết làm sao, bà đành miễn cưỡng trì danh, cho là khốn khổ lắm.
Ở chùa ba năm, niệm hơi thuần thục, bà bắt đầu sanh lòng tin sâu xa, thọ Bồ Tát giới, sáng tối lễ Phật rất cung kính. Hòa Thượng đến gặp, hỏi còn nhớ nhà không? Bà nói: “Niệm Phật vui lắm, không nhớ nhà nữa!”
Một ngày nọ, bà ngồi ở sân trước, hướng mặt về tháp niệm Phật, chợt thấy ánh sáng chói lòa, thấy thế giới sắc vàng ròng rực rỡ không bờ bến: Tường, vách, cây cối đột nhiên biến đâu mất hết. Mừng quá, bà nhỏm ngay dậy tiến đến thì chẳng thấy gì nữa. Từ đó, lục căn rỗng rang, động, tịnh, đứng, ngồi chẳng sanh niệm nào khác. Lâu sau, mộng thấy đến một nhà kia, có một người đàn bà đang ngồi trên nệm, kinh ngạc bảo:
- Sao mình lại đến đây? Ta chỉ cầu sanh Tây Phương. Nhập thai, xuất thai thật đáng sợ hãi quá!
Bà chạy mau ra khỏi nơi đó, sợ đến nỗi tỉnh dậy. Sáng ra, bảo với Hòa Thượng:
- Sanh duyên của tôi đến nay đã tận; xin vì tôi nhóm Tăng niệm Phật, đưa tôi về Tây!
Bà liền ngồi hướng mặt vềTây, qua đời.
(theo Thiện Nữ Nhân Truyện)
Nhận định:
Chúng ta niệm Phật sanh tâm lơ là thì phải miễn cưỡng mà hành: Người đã niệm được một thì sẽ niệm đến mười, niệm được trăm thì gắng niệm đến ngàn. Lâu dần thuần thục, thành công cũng như nhau. Lúc lâm chung, mộng thấy người đàn bà ngồi trên đệm; nếu lục căn chẳng rỗng rang, sanh kinh sợ bỏ chạy gấp, sẽ vào trong thai người khác bèn đọa luân hồi, cầu sanh về Tây lần nữa làm sao nổi? Nguy hiểm thay!
Nằm, ngồi đều hướng về Tây
Cư sĩ Châu Dương Huệ Khanh thời Dân Quốc, quy y Hòa Thượng Hư Vân, được đặt pháp danh là Khoan Huệ, tự Phật Trí, là phu nhân của cư sĩ Bang Ðạo Chu Khánh Quang, thứ trưởng đặc trách bộ Khảo Tuyển.
Nhờ dịp may, theo chồng đi nhậm chức ở Nam Kinh, ngụ tại Lan Viên. Có một vị lão tăng từ núi Cửu Hoa đến bảo:
- Bà tu trì nhiều đời. Sau năm bốn mươi tuổi, ắt sẽ học Phật thành công.
Sau bà nghe kinh Ðịa Tạng, ngắm bức tranh thờ của Ðại Sĩ, mới biết đích xác vị lão tăng ấy chính là hóa thân của Ðịa Tạng Bồ Tát. Năm bốn mươi, bà sống tại Kiềm Ðông, Ðồng Giang, quả nhiên phát tâm học Phật, chẳng tìm được thầy. Bà mộng thấy hai vị Tăng to lớn đồng ý giới thiệu giúp.
Ít lâu sau, nơi hội Quán Âm ở miếu Ðông Nhạc, chợt nghe có tiếng trên không nói: “Quy y Tam Bảo”; bà liền thấy vị vân du tăng tên là Khoan Ngoạn, bà xin được quy y. Sư dạy bà trì thánh hiệu Quán Thế Âm và chú Ðại Bi. Trong mộng, bà lại thấy vị lão tăng núi Cửu Hoa dạy tụng kinh A Di Ðà.
Từ ngày ấy trở đi, bà lấy đó làm thường khóa, tụng chú vào nước, nước phát quang. Cho chó dữ uống, nó trở thành thuần lương; đem trị bệnh cho người liền lành, cứu sống vô số người. Lòng từ ái thấu đến những con vật khiến cho con yểng bà đã thả đi lại về làm tổ dưới mái nhà, loài kiến đỏ nghe kinh, mèo chuột sống hòa thuận với nhau. Lòng tin của bà cảm động cả dị loại: bà thường mộng thấy cô gái đẹp dẫn bà lễ Phật, nghe kinh, hoặc chỉ dạy cách tu trì, hoặc dẫn qua chơi cảnh Cực Lạc, hoặc chỉ dạy phương hướng tránh tai nạn v.v… rất linh nghiệm. Vì thế, bà thường coi giấc mộng là niềm vui.
Sau khi đã đến Ðài Loan, bà theo lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam chuyên tu Tịnh nghiệp. Mùa Thu năm Dân Quốc bốn mươi ba (1954), bà thọ Bồ Tát giới, nghiêm trì giới luật, sáng chiều phải tụng niệm thường khóa xong mới ăn uống hay ngủ nghỉ. Nằm, ngồi đều hướng về Tây, thường thấy quang minh, thấy Phật càng cao, càng sáng, cảnh giới rất nhiều, nhưng đều giấu kín chẳng nói ra.
Mùa Thu năm Dân Quốc 51 (1962), phát nguyện tụng kinh Ðịa Tạng để cầu thọ cho mẹ, nhiều lần thấy hoa đèn hiện xá lợi. Mùa Ðông năm ấy bà bị ung thư gan, niệm Phật càng thêm khẩn thiết.
Ngày 20 tháng Ba năm Dân Quốc 52 (1963), bệnh tình nguy ngập, bà di chúc in kinh, vẽ tượng, thờ Phật, cúng dường, không nói chuyện gì khác, thầm niệm hồng danh theo đại chúng rồi qua đời. Nơi ấn đường phóng quang nhiều lần.
Lúc tẫn liệm, thân vẫn an tường, mềm mại. Tối hôm sau, khi làm xong lời ước hẹn với bà, người cùng thọ Bồ Tát giới là Trịnh Khương họ Chơn mộng thấy bà về bảo: “Ðã sanh Cực Lạc, được thân cận Di Ðà, Quán Âm”.
Trà tỳ thu được hơn ba trăm viên xá lợi, thọ sáu mươi ba tuổi. Lúc làm tuần 21 ngày, bà hiện tướng trên không mặc áo hải thanh (5) [(5) Áo hải thanh: là loại áo tràng màu đen rộng tay, bốn tà, màu đen hoặc xanh thẫm, cài xéo; ta thường gọi là “hậu”, còn cà sa gọi là “y”.], đứng trên sen hồng cho đại chúng cùng được thấy. Năm người con trai, hai người con gái của bà đều học hành xuất sắc, thành đạt.
(theo Châu Dương Huệ Khanh Cư Sĩ Kỷ Niệm Lục)
Nhận định:
Chồng vinh, con quý là phước báo do tu trì từ bao nhiêu kiếp. Nhưng phú quý học đạo rất khó, bà may mắn được đức Ðịa Tạng hóa thân thọ ký, trong mộng dạy kinh, mộng thấy vị Tăng to lớn giới thiệu cho được thọ Tam Quy. Mộng thấy mỹ nữ chỉ dạy cách tu trì và dẫn đi thăm Cực Lạc v.v… là thiện căn phước đức nhân duyên rất sâu. Thường thấy quang minh lẫn thân Phật, xá lợi thường giáng hiện, các thứ thắng cảnh là do giới hạnh tinh tấn cảm thành.
Nước Ðại Bi trị lành được các bịnh, nhưng trọn chẳng tự cứu nổi mình có phải là muốn chịu khổ thay cho chúng sanh, hành Bồ Tát Ðạo đấy chăng? Có phải là do túc nghiệp nhiều đời, một đời này báo tận nên tạm chịu nỗi khổ nhỏ để vĩnh hưởng Cực Lạc đấy chăng?
Xem trong di chúc, chẳng bàn đến chuyện gì khác là chẳng tham luyến. Niệm Phật theo đại chúng là chánh niệm phân minh. Xả báo an tường là làm chủ được trong cơn bịnh khổ. Lại còn các điềm lành: phóng quang, báo mộng, lưu xá lợi, hiện tướng v.v… thì đã chứng Thượng Phẩm Thượng Sanh chẳng còn nghi ngờ gì nữa!
Con cháu trợ niệm
Cư sĩ Lưu Lý Cúc thời Dân Quốc là người ở thành phố Ðài Trung. Từ bé đã thông minh, đĩnh ngộ, khéo hiểu ý người khác. Ðến lớn, kết hôn với ông Lưu A Vượng, thờ cha mẹ chồng rất hiếu thuận, hòa mục đối với xóm giềng, sanh được năm trai, sáu gái. Bà giúp chồng dạy con, tánh tình ôn nhu, hiền thục, tâm địa thiện lương, tùy duyên giúp đỡ người nghèo, ai nấy đều kính trọng.
Năm Dân Quốc 68 (1979), chồng mất, bà thường sầu muộn vì nỗi khổ ái biệt ly; may có cháu gái là cư sĩ Lưu Mạnh Chơn do nghe lão sư Lý Bỉnh Nam khai thị pháp môn Tịnh Ðộ, liền khuyên bà niệm Phật. Bà liền vui vẻ tin nhận, quy y Tam Bảo, sáng tối niệm Phật cầu sanh Tây Phương.
Lại còn tùy duyên cúng dường Tam Bảo, bố thí, phóng sanh. Sau đó, bà lại phát nguyện ăn chay trường, mỗi ngày công khóa niệm Phật chẳng gián đoạn. Tịnh nghiệp tinh tấn đến nỗi trong mộng cũng thường niệm Phật.
Hai năm trước khi bà được vãng sanh, bà chiếu theo lời khai thị Lâm Chung Tam Ðại Yếu (ba điều trọng yếu lúc lâm chung) của Tổ Sư Ấn Quang:
1. Khéo léo khai thị, an ủi khiến sanh chánh tín.
2. Cả nhà luân phiên niệm Phật để trợ giúp tịnh niệm.
3. Cẩn thận tránh xao động, khóc lóc khiến cho người chết bị lỡ làng.
Ðể dặn dò toàn thể dâu, con; lại còn ghi âm làm chứng để mong con cháu trước và sau lúc bà vãng sanh sẽ khéo tuân hành theo, ngõ hầu lúc lâm chung chẳng bị chướng ngại, quyết được vãng sanh Tây Phương. Tuy tuổi đã ngoại bát tuần, thân thể bà vẫn khang kiện.
Ðến giữa trưa ngày hai mươi hai tháng Chạp năm Dân Quốc 78 (1989), bà tắm gội thay áo, tụng niệm thời khóa tối xong, bà hơi hôn mê, chẳng nói năng gì nữa. Con cháu hơn năm mươi người liền tuân theo di chúc, luân phiên niệm Phật. Liên hữu nghe tin cũng đến trợ niệm.
Sau khi niệm Phật được hơn mười hai giờ một chút, bà chợt tỉnh táo, tay lần xâu chuỗi, tự nhìn tượng Phật, miệng lầm rầm niệm Phật. Giữa tiếng trợ niệm của toàn thể con cháu và các liên hữu, bà liên tục niệm Phật chẳng gián đoạn. Ðến trưa ngày hai mươi tám, bà chánh niệm phân minh, an tường mỉm cười vãng sanh; thọ tám mươi ba tuổi.
Lúc ấy, mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, ai ngửi thấy đều khen ngợi. Mọi người tiếp tục trợ niệm. Ðến ngày hôm sau, lúc tắm rửa, thay áo, thân bà vẫn mềm mại, tướng mạo hệt như lúc còn sống. Lúc nhập liệm lại ngửi thấy mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, hồi lâu chẳng tan. Con cháu cảm động, liền suốt ngày đêm niệm Phật đủ bảy ngày. Lúc trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi.
(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)
Nhận định:
Ðại Sư Liên Trì nói:
“Làm con đối với cha mẹ hầu hạ, phụng dưỡng cho được an ổn là hiếu; lập thân hành đạo để rạng rỡ mẹ cha là đại hiếu. Nhưng khuyên cha mẹ dùng pháp môn Niệm Phật để vãng sanh Tịnh Ðộ là đại hiếu nhất trong những sự đại hiếu!”
Vị nữ cư sĩ này tuy trước đã sẵn đủ thiện căn, nhưng lúc tuổi già khổ sở vì chồng chết, được cháu gái khuyên niệm Phật liền tín nguyện tận lực hành trì, nhưng lâm chung bị hôn mê, phải nhờ đến con cháu chia phiên trợ niệm mới tỉnh lại để niệm Phật, mỉm cười vãng sanh. Mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, tướng lành hiển nhiên.
Nguyện những kẻ làm con cháu trong thế gian thấy điều lành hãy gắng làm theo mới đúng là đại hiếu nhất trong những người đại hiếu!
Trăm sự chẳng quản
Bà lão Bách Bất Quản đời Thanh không rõ họ tên, người Hàng Châu; từng đến hỏi HòaThượng Ðạo Nguyên ở Hiếu Từ Am rằng:
- Tu pháp môn gì thì trong một đời quyết sẽ thoát khỏi biển khổ?
Hòa Thượng dạy:
- Không gì bằng niệm Phật! Nhưng niệm Phật chẳng khó, niệm cho lâu bền mới khó. Niệm lâu bền chẳng khó, nhất tâm mới khó. Nếu có thể chẳng quản đến hết thảy, chuyên tâm trì danh, chí thành phát nguyện vãng sanh thì lâm chung Phật đến tiếp dẫn, sẽ thoát ly khổ hải!
Bà vui mừng lễ tạ, liền đem việc nhà giao hết cho con dâu, tự lập tịnh thất để thờ Phật hầu tu trì trong ấy. Một năm sau, lại đến hỏi:
- Từ khi được khai thị, đệ tử đã buông bỏ việc nhà, chuyên gắng niệm Phật, tự vấn thấy mình tu hành đã lâu chẳng lười nhác, nhưng khổ nỗi vẫn chưa được nhất tâm, thầy có cách nào dạy cho con!
Hòa Thượng bảo:
- Bà tuy bỏ hết việc nhà, nhưng chưa thể thôi nghĩ tưởng đến con cháu, quyến thuộc. Ðấy là ái căn chưa nhổ, làm sao nhất tâm được? Nay bà nên gia công, trước hết phải nhổ sạch ái căn, đem hết thảy buông xuống thì sau đấy mới đắc Nhất Tâm.
Bà than:
- Lời thầy thật đúng, con tuy chẳng quản đến thân, nhưng chưa thể chẳng quan tâm đến cái tâm, từ nay phải thật sự trăm việc chẳng quan tâm đến vậy!
Bà liền càng gia công tinh tấn, ái tâm vừa động liền thầm niệm ba chữ “bách bất quản” để tự khu trừ. Nếu ai hỏi đến việc nhà cũng dùng ba chữ ấy để cự tuyệt. Do vậy, thành tên Bách Bất Quản trong vòng gia thuộc. Hơn một năm sau, bà đến am, tạ:
- Thầy chẳng lừa dối con. Ðệ tử có ngày đi về Tây rồi!
Vài hôm sau, không bệnh mà mất.
(theo Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Cư sĩ Hồ Liên Quy bình rằng:
“Bách Bất Quản là hỗn danh. Nói rộng ra, từ trăm đến ngàn, ngàn đến vạn đều chẳng quản đến. Nói gọn lại, một điều còn chẳng quản, huống hồ là trăm? Làm được như vậy thì trần duyên thân sau đoạn được, tịnh nghiệp thành được. Than ôi! Thế nhân làm sao đều trăm sự chẳng quản như thế được ư?”
Pháp này tối diệu. Ai không đạt được Nhất Tâm xin hãy bắt chước cách này mà tận lực hành trì.
Phổ nguyện sanh Tây
Bà Châu Uông thị (6) [(6) Châu Uông thị: Bà này họ Uông, lấy chồng họ Châu. Tàu hay gọi tên đàn bà theo họ chồng, không nêu rõ tên; chỉ gọi họ. Cũng như bà Dư Tông Thị trong phần Miễn Cưỡng Niệm Phật ở trên: chồng họ Dư, bà họ Tông], người Hoa Ðình; chồng là Châu Văn Vinh, nhà nghèo, phải đi làm ăn xa, chết nơi đất khách ở tỉnh Hồ Bắc, lâu ngày không đưa tin về; bà phải thêu thùa, may vá tự kiếm sống.
Bà trường trai niệm Phật, nuôi con khôn lớn; sai tìm hài cốt cha đưa về quê an táng, cả họ khen là có hiếu. Tuổi già, bà niệm Phật càng thêm cung kính, chơn thành, nguyện cha mẹ mình, bố mẹ chồng và chồng đều được sanh về Cực Lạc.
Sau bà mắc bịnh, đóng cửa niệm Phật, chẳng hỏi đến việc nhà. Lâm chung, bảo con rằng:
- Ðêm qua, ta mộng thấy ông bà nội, ông bà ngoại và cha con đều ở trong Liên Hoa thế giới, đằng trước có mây ngũ sắc hiện, nâng một đóa sen to như cái thuyền, ta liền ngồi lên đó vãng sanh.
Nói xong qua đời, cả nhà có mùi thơm như hoa lan.
(theo Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Chồng chết tu Tịnh nghiệp, nguyện chồng cùng cha mẹ mình, bố mẹ chồng cùng sanh Cực Lạc, đều được mãn nguyện. Trong đời có kẻ tuổi xuân góa chồng, nhưng chỉ uổng lưu truyền cái hư danh tiết liệt, để lỡ mất cái lợi ích thật sự được đồng quy Cực Lạc. Xin hãy bắt chước gương này!
Chuyên cầu thoát khổ
Thời Dân Quốc, một người phụ nữ nghèo ở huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang, không biết họ, nhà nghèo, con ngỗ nghịch. Một ngày nọ bị con mắng nhiếc, tâm đau đớn, khó nhẫn, đến than thở với vị Tăng ở gần nhà. Vị Tăng bảo:
- Bà đã biết khổ; sao chẳng đem cái khổ ấy bán đi?
Hỏi:
- Làm sao bán được đây?
Tăng bảo:
- Bà chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh Tây Phương. Lâm chung Phật đến tiếp dẫn đi thì vĩnh viễn thoát khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Ðấy là bán khổ đi đó!
Bà nói:
- Mẹ con tôi sống chung một phòng. Giường và bếp kê chung một chỗ. Dưới gầm giường có chuồng heo. Bẩn thỉu như vậy làm sao niệm Phật được?
Tăng bảo:
- Không hề chi, bà sống tại gia thì chỉ cốt sao thường niệm, lúc rảnh có thể đến chùa lễ Phật.
Bà liền phụng hành đúng như lời dạy, chuyên cầu thoát khổ, niệm Phật không gián đoạn. Ba năm sau, trước lúc sắp lâm chung vài tháng, bà nói trước với con:
- Ngày tháng đó ta sẽ sanh Tây Phương. Ngươi đừng có đi ra ngoài, vì ta lo liệu hậu sự để trọn đạo làm con.
Người con chẳng tin; ít lâu sau, bà nhắc lại cũng chẳng tin. Vài ngày trước khi mất, chợt ngửi thấy mùi hương lạ, tìm khắp nơi chẳng biết từ đâu ra, mới tin lời mẹ là thật. Ðến kỳ, cả nhà trông chừng, thấy mẹ tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời.
(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Dùng cái tâm sợ khổ để niệm Phật là pháp mầu nhiệm bậc nhất để thoát khổ. Nếu chẳng phải là nhà nghèo, con ngỗ nghịch, tâm đau buồn khó chịu đựng nổi thì làm sao cam tâm chuyên cầu thoát khổ niệm Phật sanh Tây? Thuận, nghịch đều là phương tiện; nghịch cảnh còn thù thắng hơn thuận!
Già dặn, chắc thật niệm Phật
* Ðạo sĩ Vương Si Ðầu đời Thanh, người tỉnh Trực Lệ, tánh cực ngu. Cha mẹ mất, đói ăn, nằm mọp trong căn lều nát, không biết tính cách nào. Có ai cho tiền cũng chẳng biết dè xẻn. Trần đạo nhân bèn thâu gã làm đồ đệ, sai ngày ngày quét tước, hái củi; khóa chiều thì niệm Phật vài trăm câu, lễ bái, thắp hương làm lệ thường.
Vương tụng Phật hiệu chẳng thành câu, mỗi lúc hôn trầm sắp ngủ gục, ông Trần dùng gậy dài đập, quở:
- Mày đã ngu muội như vậy lại còn chẳng biết tinh tấn hay sao?
Suốt ba năm như thế. Một ngày kia, Vương ha hả cười lớn. Ông Trần lại đánh, Vương nói: “Hôm nay thầy đánh con không được đâu!” Thầy cật vấn lý do, Vương nói:
- Thầy ngồi như cây khô suốt mười tám năm, chẳng biết tu pháp. Nếu thầy có thể lễ niệm già dặn, chắc thật như con thì đã sớm được sanh về Tây Phương thấy Phật rồi!
Ông Trần ngạc nhiên, nhưng không quan tâm đến lời ấy. Ngày hôm sau, Vương trèo lên Tiêu Nhai, đứng hướng về Tây chắp tay qua đời. Trà tỳ thu được hai viên xá lợi.
(theo Nhiễm Hương Tập)
* Thời Dân Quốc, bà A Ấu chẳng rõ họ tên, người huyện Ðài Trung tỉnh Ðài Loan, chỉ sanh được một đứa con gái, bắt con rể ở rể. Do một chữ chẳng biết nên chỉ già dặn, chắc thật niệm Phật.
Với Phật thất mùa Xuân, mùa Thu ở chùa Linh Sơn, bà đều kiền thành tham gia. Bà thấy nam, nữ đồng tu đều mặc áo hải thanh, trang nghiêm chỉnh tề, liền lấy vàng để dành giao cho con rể đem bán, mong may được áo hải thanh tham gia Phật thất. Con rể chịu bỏ tiền ra may, khuyên bà đừng bán vàng.
Ðến sáng sớm ngày thứ nhất của Phật thất, bà tắm gội, thay áo, mặc áo hải thanh mới. Trong lúc đang thắp hương, đốt đèn, liên hữu là A Tam Muội đến rủ đi dự Phật thất. Bà Ấu nói:
- Cô đi trước đi, tôi lễ Phật tại nhà trước đã!
Bà mới hoan hỷ lại ba lạy xong, chợt thấy thánh tượng của Tam Tôn xoay tròn, hương cũng xoay theo, càng nghĩ càng thấy kỳ, càng nhìn càng thấy chuyển. Bà liền đi kêu mấy liên hữu ở gần đến xem. Ai cũng bảo là chẳng thấy chuyển động. Chẳng nghe bà ừ hử gì, lúc quay đầu ngó lại, thấy bà đứng thẳng, chắp tay, mỉm cười quy Tây rồi, thọ sáu mươi tám tuổi. Họ liền trợ niệm cho bà, lại dặn cả nhà đồng thanh niệm Phật.
(theo Niệm Phật Cảm Ứng Kiến Văn Ký)
Nhận định:
Phật dùng thuyền từ phổ độ, khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chỉ biết già dặn chắc thật niệm Phật. Một đạo sĩ si ngốc, một bà lão ngu ngơ trên đây tuy chưa từng thọ Tam Quy, Ngũ Giới nhưng do già dặn, chắc thật niệm Phật nên đứng chắp tay mà hóa, ắt họ đều thấy Phật đến tiếp dẫn, vãng sanh Cực Lạc. Xin những kẻ tự cậy mình thông minh, chẳng chịu niệm Phật hãy biết chỗ quy hướng vậy!

Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
 
Trì giới niệm Phật
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Niệm phật xuất tam giới bất khả tư nghị
» Vãng sanh Cực Lạc thế giới với câu niệm Phật .
» Nguyên Nhân Nào Phật Giảng Pháp Môn Niệm Phật
» Niệm Phật Hộ Niệm Vãng Sanh Để Lại Hương Thơm - PT Dương Thị Cúc
» Niệm Phật Đạt Niệm Lực Tương Tục Bảo Đảm Vãng Sanh

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến