ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI


 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Top posters
Admin (4647)
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Vote_lcapNiệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  I_voting_barNiệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Vote_rcap 
Latest topics
» TÂM XÃ LÀ GÌ?
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» 8 CON ĐƯỜNG CAO QUÝ ĐƯA TA ĐẾN GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:48 am

» TÂM CHAY LÀ GÌ?
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:45 am

» GIẢI NGHĨA:VỀ CAO TẦNG CỔ TỔ 9 ĐỜI
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:44 am

» GIẢI NGHĨA :BÀI NGUYỆN HƯƠNG TRƯỚC CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Apr 02, 2024 2:43 am

» Phải Thiệt Ăn Chay, Không Ăn Ngũ Vị Tân, Tụng Kinh Là Gì.. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh,95 Tuổi
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 4:00 am

» Hòa Thượng Thích Trí Tịnh kể chuyện bị quỷ vương tuyên chiến
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:56 am

» Lễ Khánh Tuế Hòa Thượng Thích Trí Tịnh - 95 Tuổi
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:54 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:53 am

» KHAI THỊ CHÚC TẾT 2010 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:52 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2012 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:51 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2013 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2008 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:50 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2011 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:49 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 1993 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:48 am

» KHAI THỊ KHÁNH TUẾ 2009 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:45 am

» VẤN ĐÁP PHẬT PHÁP 1994 | HT THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:44 am

» HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC Trọn bộ | Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:39 am

» Tịnh Độ Quyết Nghi (Trọn bộ) - HT Thích Thiền Tâm
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeby Admin Tue Oct 11, 2022 3:38 am


 

 Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 7:54 am

CHƯƠNG MỘT: CHẮC CHẮN VĨNH-BIỆT TAM GIỚI THÀNH ĐẠO NGAY TRONG ĐỜI NÀY
Trong bộ băng giảng kinh Thủ-lăng-Nghiêm,
Pháp sư Tịnh-Không có nhắc đến Niệm Phật Viên Thông Chương, tức đoạn
kinh văn mà Đại Thế-Chí Bồ-Tát đã trình bày chỗ đắc ngộ của Ngài cùng 52
vị đồng môn qua Pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc.

Theo Pháp sư Tịnh-Không, Đại sư Ấn-Quang gọi Niệm Phật Viên-Thông Chương là "Tịnh-Độ Tâm-Kinh".

Trước đây, có Bát Nhã Tâm-Kinh là bộ kinh ngắn nhất, là nồng cốt của Bộ Kinh
Đại Bát Nhã mà hầu hết các chùa đều tụng đọc sau mỗi thời kinh. Tụng Bát
Nhã Tâm-Kinh nhắc cho người tu biết rằng tất cả các pháp trên thế gian
này đều là Không. Nếu biết và nhớ rõ các pháp đều là Không, thì người tu
hành dù xuất gia hay tại gia đều không quá chấp lấy thân, lấy của,
tránh được biết bao nhiêu là phiền toái.

Bát-Nhã Tâm-Kinh là Tâm Kinh của Bồ Tát Quán Thế Âm. Còn Tịnh-Độ Tâm Kinh là Tâm Kinh của Bồ-Tát Đại-Thế-Chí .

Ngài Quán Thế Âm dùng Nhĩ căn Viên-Thông để tu chứng liễu-nghĩa Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm. Ngài Đại-Thế-Chí dùng Niệm Phật Viên-Thông để tu chứng
liễu-nghĩa Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm.

Tại sao lại đặt thành tu chứng

Liễu-nghĩa hay bất liễu-nghĩa ra đây ?

Hoà-Thượng Tịnh-Không khẳng định: "Kinh Lăng Nghiêm là căn bản của tất cả Đại-Thừa
tu học liễu-nghĩa. Nếu muốn trong đời này thành tựu, bất kể là học
Thiền, học Giáo, hoặc tu niệm Phật hay Mật Tông, nếu lìa khỏi cơ sở này,
bất luận tu học pháp môn nào anh nhứt định không thể thành công".

Hiện nay, các bạn niệm Phật đồng tu rất nhiều đều hy vọng đạt được Niệm Phật
Tam-Muội, đều hy vọng trong đời này quyết được vãng sanh. Niệm Phật
Tam-Muội và quyết định vãng sanh vẫn phải xây dựng trên cơ sở Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm này.

Có nhiều người niệm Phật rốt cuộc không
thể Vãng sanh, vì sao ? Là vì không có cơ sở này. Cho nên chúng ta phải
tìm ra bịnh căn của nó.

Ở chỗ nào không thể vãng sanh?

Nguyên nhân chân-chánh của nó là ở đâu ?

Sau khi tìm ra được, chúng ta đem nhân tố đó tiêu trừ, thì mục -tiêu tu học của chúng ta mới có thể đạt được .

Đây là ý-nghĩa của chữ "Đại" trong đề mục của Kinh. Đoạn thứ hai là Phật
Đảnh. Phật Đảnh là nghĩa hiển-pháp tượng trưng. Toàn bộ bộ Kinh này là
đảnh đầu của Phật . Phật đảnh là tối tôn vô-thượng, hiển thị rõ bộ Kinh
điển này chỗ nói tất cả pháp môn. Y theo pháp môn này mà tu học, thành
tựu vô-thượng Bồ-Đề . Phật Đảnh là tối vi-diệu, không ai có thể thấy
được.

Vì sao không thấy được Phật Đảnh ?

Phật Đảnh
phóng quang, cho nên anh không thấy rõ Phật Đảnh . Cứu cánh ra làm sao
không thấy rõ được ? Ý nghĩa này là hiển thị rõ .

Bộ Kinh-điển
này, Pháp-môn là tối vi diệu . Duy chỉ Phật với Phật mới cứu cánh. Đẳng
giác Bồ Tát trở xuống đều không thể hoàn-toàn hiểu triệt để . Đây là
dùng hai chữ Phật Đảnh để tỷ dụ, để hiện thị .

Phần thứ ba là Như Lai Mật Nhân. Nếu như dùng Tam Nhân Phật Tánh mà nói, thì đây tương đương với Chánh Nhân Phật Tánh .

Cái gì gọi là Chánh Nhân Phật Tánh ?

Chánh Nhơn Phật Tánh tức là nói bản Tánh, tức là Chánh Nhơn Thành Phật của
ta. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận gọi đó là Bản giác. Bản giác là nhân tố
chân chánh để tu thành chánh quả của chúng ta.

Phật Bồ Tát đều
dạy chúng ta, bản giác vốn sẵn có, người người đều có. Tuy có, mà vì
chúng ta có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước, kết quả là mê mà
chẳng ngộ. Vốn là giác, mà nay vì mê mà chẳng giác.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo đây là cái căn bản trong hai căn bản :

1. Là căn bản của sự thành Phật .

2. Là căn bản lưu chuyển trong cửu pháp giới .

Cửu pháp giới chúng sanh là mê . Phật là ngộ . Mê, ngộ, chơn, vọng thảy đều là nó .

Đây gọi là Mật Nhân.

Mật Nhân này ở đâu ?

Nếu chúng ta tìm không ra cái chơn bản, thì lấy gì để tu? Nếu như tu sai
đi, thật là oan uổng. Cuộc đời của ta nào tinh thần và thì giờ đều lãng
phí một cách vô hiệu quả. Nhứt định phải tìm cho ra chơn bản, điều này
rất nhiều người học Phật không chịu nghiên cứu sâu vào.

Cho
nên, tuy gọi là học Phật, vẫn chẳng phải là thật sự học Phật . Nếu thật
sự là học Phật, thì nhất định đem việc này nghiên cứu một cách rõ ràng,
minh bạch . Phật dạy chúng ta, chơn tâm bản tánh gần nhứt là trước cửa
lục căn chúng ta. Từ viễn đại mà nói, tức là tận hư không biến pháp
giới, không nơi nào không có mặt; cho nên bao gồm đầy đủ vạn pháp . Thập
pháp giới, nghi chánh trang nghiêm đều là nó .

Chúng ta hiện nay hạ thủ để tu học . Từ đâu mà hạ thủ ? Trong Kinh này Phật dạy chúng ta, từ đầu cửa lục căn mà hạ thủ .

Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm là tên gọi tắt. Gọi đủ tên Kinh dài hai mươi chữ: Đại
Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ-Tát Vạn-Hạnh
Thủ-Lăng-Nghiêm.

Theo Hoà-Thượng Tịnh -Không, Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm có duyên với người tu niệm Phật Vãng Sanh Tây Phương
Cực-Lạc. Người giảng Kinh Lăng Nghiêm hay nhứt là Giao Quang Đại sư.
Trước khi chú giải Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, Giao Quang Đại sư được Phật
A-Di-Đà đến đón, vì hằng ngày Ngài tu Niệm Phật cầu vãng sanh. Ngay khi
Phật A-Di-Đà đến đón, Giao Quang Đại sư nhớ đến Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm
chưa có người chú giải, nên liền xin với Phật A-Di-Đà cho Ngài ở lại để
chú giải xong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Phật A-Di-Đà chấp thuận cho nghỉ
phép. Ngay lúc đó Giao Quang Đại sư đang trọng bịnh. Khi Phật A-Di-Đà
biến mất thì bịnh của Giao Quang Đại sư cũng hết.

Nơi sách này
chúng tôi rút một phần bài giảng của Pháp sư Tịnh-Không, cho thích hợp
với danh đề của sách là Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh ?

Trở lại việc Giao Quang Đại-sư chú giải Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm.

Giao Quang Đại sư đề xướng: "Bỏ thức dùng căn".

Chữ căn này chỉ cho cái tánh trong căn. Phàm phu chúng ta khi mắt thấy sắc,
lấy gì để thấy? Dùng nhãn thức. Tai nghe tiếng, dùng nhĩ thức . Điều
này quý vị đọc qua chút duy thức đều biết . Chúng ta thường dùng sáu
thức, chẳng biết cách dùng căn tánh của sáu căn. Trong Kinh Lăng Nghiêm,
Phật chỉ điểm cho chúng ta đừng nên dùng thức. Thức là phân biệt, chấp
trước. Lục căn phân-biệt cảnh-giới lục trần bên ngoài, thì gọi là lục
thức. Lực lược phân biệt của ý thức, rất mạnh. Công năng chấp trước của
thức thứ bảy là Mạt na rất mạnh. A-lại-da là thức thứ tám hàm chứa tất
cả chủng tử; cho nên gọi là thức nhiểm ô, đem tâm chơn bản tánh của
chúng ta làm nhiểm ô, chướng ngại; đây gọi là bịnh căn. Chơn chánh tu
hành, sự thành tựu của viên đốn dùng phương-pháp này thì không đạt được.
Phật dạy chúng ta một phương-pháp khác, là dùng cái tánh trong căn.

Nói một cách khác, chúng ta thấy sắc đừng nên dùng nhãn thức để thấy, mà
dùng tánh kiến để thấy . Chúng ta nghe tiếng, đừng dùng nhỉ thức để nghe
mà dùng tánh nghe để nghe.

Nói một cách khác, giả như chúng ta
biết dùng căn tánh của sáu căn, như vậy thì anh đã nắm được Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm. Thì trong đời này anh đạt được thành tựu vô cùng vĩ đại
bất khả tư nghị.

Kỳ thật, tất cả Phật pháp Đại thừa có pháp nào mà chẳng xây dựng trên nguyên lý này .

Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Ngài Mã Minh dạy chúng ta: "Dùng trạng thái tâm lý nào để tiếp nhận Phật pháp Đài thừa ?

Ngài dạy chúng ta 3 điểm :

1. Lìa tướng ngôn thuyết .

2. Lìa tướng danh tự (tức là danh từ Phật ngữ).

3. Lìa tâm duyên tướng .

Quý vị thử nghĩ, 3 điểm lìa này, tức là Kinh Lăng Nghiêm dạy xả bỏ thức .
Ba thứ này đã lìa là dùng cách chi ? Dĩ-nhiên là dùng cái tánh trong
căn. Cũng với Phật trong Kinh Lăng Nghiêm, thì danh từ không tương đồng,
nhưng nội dung thì hoàn toàn đồng nhất . Do đây có thể biết, đây là căn
bản lý luận chung cho Phật pháp Đại Thừa, là nguyên tắc chung của sự tu
học . Đây tức là bỏ thức dùng căn.

Còn Mật Nhân, tại sao Phật đem sự việc này gọi là Mật Nhân ?


là hàm ý rất là sâu. Phật dạy chữ Mật này là phá lỗi chấp trước của
Tiểu-Thừa. Lại nói thêm chữ Nhân. Là nói đến sự cuồng tuệ trong Đại Thừa
Viên giáo. Có một hạng người tự cho là mình có căn tánh Đại thừa viên
dung vô ngại. Hình như họ biết rất nhiều, nói rất có mạch lạc thứ lớp;
nhưng chẳng thật sự thiết tha tu hành . Đây gọi là có giải mà không hành
. Phật đặc biệt nói đến chữ Nhân. Anh tu nhân không viên mãn thì không
thể chứng quả được; giải không dùng được (Giải đây là kiến giải). Sau
khi giải rồi phải thật sự đi làm mới được . Cho nên sau khi giải rồi
nhất định phải thực hành .

Chỉ biết một ít Phật pháp, mà không
thể thực hành một cách thiết thực, đây là cái lỗi của hạng người Đại
Thừa Viên Giáo cuồng tuệ .

Cho nên Đức Phật đặc biệt đánh thức
họ về tầm quan trọng của tu Nhân; dùng Như Lai Mật Nhân. Đây là ba loại
"đại định" mà Kinh Lăng Nghiêm nói đến . Diệu Sa-ma-tha là tên gọi của
đại định . Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến ba thứ, Sa-ma-tha, Tam-ma
và Thiền -Na, khi Xiển giáo Đức Thế -Tôn đề ra:

-"Ngài A Nan,
quý vị đã biết, ông ta nghe Kinh nhiều nhứt và hoàn chỉnh nhứt, vì ông
ta là Thị-giả của Thế-Tôn. Mỗi hội Phật thuyết-pháp đều có ông ta tham
gia, những danh từ này ông ta rất thuộc. Vì vậy trong hội này Phật lại
nêu ra ba danh xưng này. Nhưng Đại định Thủ-Lăng-Nghiêm, A-Nan chưa từng
nghe qua, nên ông ta hỏi ba nghĩa này".

Như Lai Mật Nhân là
đáp cho Tôn giả A-Nan chữ Sa-ma-tha. Cho nên chữ Sa-ma-tha thêm vào chữ
Diệu là diệu Sa-ma-tha; khác với Sa-ma-tha trong các Kinh luận khác nói
đến . Ý nghĩa chữ Sa-ma-tha nặng về phần chỉ . Chỉ tức là đem những thứ
vọng tưởng phân biệt chấp trước đều ngừng chỉ nó . Cho nên có một tí
cùng với Tông Thiên-Thai nói đến "chỉ quán", chữ chỉ đó rất gần,nhưng
thực tế có phải chữ chỉ này không ? Vẫn chẳng phải . Sau chữ "chỉ" đó,
công phu cũng còn cần phải gần thêm một tầng.

Khi nãy vừa nói
qua, chính yếu là nó dụng tâm khác nhau. Thiên Thai "chỉ quán" dùng ý
thức tâm, còn Phật nói ở đây về Sa-ma-tha, Tam-ma-địa, Thiền-Na, tuy
cũng là ý-nghĩa "chỉ quán"; nhưng là bỏ thức mà dùng căn. Nó là dùng căn
tánh của 6 căn. Một cái là dùng 6 thức của 6 căn. Sai biệt là ở chỗ này
.

Cho nên rất giống, rất tương tợ; nhưng thực tại thì là khác
nhau. Điều nầy là khi nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm, trước tiên chúng ta
phải phân-tách cho rõ ràng .

Đề Kinh đoạn thứ tư: "Tu chứng
liễu-nghĩa". Đây là trong "Tam nhân Phật Tánh" tương đương với
Liễu-Nhân. Liễu là hiểu rõ . Nói một cách khác tức là Trí tuệ. Không có
trí tuệ thì anh sẽ không hiểu rõ . Có được chơn Trí-Tuệ thì anh mới thật
hiểu rõ.

Nhơn "tánh" mà khởi "quán" gọi là Tu

Trong Thiền Tông thường dùng thuật ngữ này, gọi là quán chiếu . Đây gọi là chơn tu.

Cái gì gọi là quán chiếu . Ý-nghĩa của chữ quán, khi Sáu căn của chúng ta
tiếp xúc với cảnh giới của sáu trần bên ngoài; mắt tôi thấy sắc (mắt có
thể thấy được tất cả các thứ đều gọi là Sắc pháp; dùng một danh từ này
để đại-biểu), tai nghe được tất cả những âm thanh (đây gọi là thanh
pháp), cho đến ý của chúng ta, tâm ý, tâm có thể nghĩ tưởng. Khởi tâm
động niệm chúng ta đều gọi nó là pháp. Sáu căn chỗ đối của nó là sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu như không dùng phân biệt chấp trước,
cũng giống như Bồ Tát Mã Minh nói: "Lìa bỏ ngôn thuyết làm thế nào vận
dụng tánh thấy ?"

Lìa bỏ nhãn thức đây gọi là quán chiếu. Nói
một cách khác, mắt thấy cảnh giới bên ngoài, không khởi tâm, không động
niệm, không phân biệt, không chấp trước; cảnh giới bên ngoài rõ rõ, ràng
ràng minh minh bạch bạch đây gọi là quán chiếu. Nếu như gặp cảnh giới
bên ngoài khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước thì quán chiếu liền
Mất. Quán chiếu là tuệ. Mất đi quán chiếu là mê. Quán chiếu là ngộ. Mê
và ngộ là ở chỗ nầy.

Đức Phật quả thật từ bi, dạy chúng ta
trong sanh hoạt hằng ngày phải thường huấn luyện quán chiếu. Bởi vì
chúng ta đánh mất quán chiếu đã quá lâu rồi. Từ kiếp vô thỉ đến nay mê
hoặc điên đảo, chẳng biết dùng phương pháp này, Bây giờ phải xoay chuyển
trở lại.

Chư Phật Bồ-Tát, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu
trần tất cả đều dùng quán chiếu . Chúng ta cũng biết dùng, đây được gọi
là Bồ-Tát . Khi công phu quán chiếu đắc lực rồi thì có được sức mạnh,
gọi là "chiếu trụ".

Đây là quán chiếu đã có được công phu rất thâm sâu. Chiếu trụ là cảnh giới gì ? Tức là đã được định .

Trong Thiền Tông gọi người này đã được thiền định . Tịnh-độ Tông thì gọi là sự nhứt tâm bất loạn, cũng gọi là Chiếu trụ .

Sau khi được chiếu trụ công phu bước lên một nấc nữa, gọi là "chiếu kiến".
Trong Bát Nhã Tâm Kinh: "Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát -Nhã Ba-La-Mật
đa Thời, "chiếu kiến" ngũ uẩn giai không".

Chiếu kiến, trong
Thiền Tông gọi là "minh tâm Kiến Tánh" đại triệt đại-ngộ. Trong Tịnh-độ
Tông gọi là "lý nhứt tâm bất loạn". Trong giáo hạ gọi là đại khai viên
giải .

Danh từ gọi không giống nhau, cho nên Bồ-Tát Mã Minh dạy đừng chấp trước danh từ.

Phật nói các thứ danh tướng đều là giả. Mục đích là bảo chúng ta đừng nên chấp trước.

Vậy thì, chúng ta biết được cái gì gọi là quán, cái gì gọi là chiếu. Mắt
thấy sắc gọi là quán chiếu; tai nghe tiếng cũng gọi là quán chiếu; 6 căn
tiếp xúc với cảnh giới 6 trần, tất cả đều gọi là quán chiếu . Dùng một
danh từ này để đại biểu .

Chỗ đề xướng của Kinh Lăng Nghiêm là lấy quán chiếu làm Chơn tu.

Chơn chính dụng công là ở chỗ nào ?

Tôi, mắt thấy sắc, tôi nghe tiếng, học không khởi tâm không động niệm, không
phân biệt, không chấp trước . Tôi thấy rõ, nghe rõ, thứ nào đều rõ
ràng, mà tâm thì chẳng động . Tất cả chỗ nào cũng rõ ràng là tuệ, không
khởi tâm động niệm là định . Đây là định tuệ đẳng vận, định tuệ song tu.

Tu nơi nào ?

Là ở trong sinh hoạt hằng ngày. Xử thế, đối người, tiếp vật, là ở trong
đây học tu quán. Đây gọi là Chơn tu hành. Đây gọi là thật sự biết dụng
công.

Vậy thì dụng công cái tiện lợi nhứt, thiện xảo nhứt là
trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cử ra 25 vị Bồ-Tát làm mô phạm, làm gương
mẫu cho chúng ta. Đó là 25 viên thông chương.

Trong các mô
phạm, chúng ta được biết Quán Thế Âm Bồ-Tát làm mô phạm bằng Nhĩ âm Viên
thông chương; Đại Thế Chí Bồ-Tát làm mô phạm cho chúng ta là Niệm Phật
Viên-Thông chương.

Nhưng trong 25 loại phương-tiện, viên mãn
nhứt, thiện xảo nhứt, thù thắng nhứt, chẳng hơn nổi Đại-Thế-Chí Niệm
Phật Viên-Thông chương.

Với lại trong Kinh nói đến về lý luận,
nguyên tắc, tông chỉ, đều phù hợp một cách viên mãn mật thiết. Ngó lại
vô cùng dễ tu. Chúng ta thấy sắc nghe tiếng làm sao mà chẳng khởi tâm
động niệm? Hễ thấy cảnh thì A-Di-Đà Phật, nghe tiếng thì A-Di-Đà Phật;
thảy đều chuyển về A-Di-Đà Phật . Cách này tiện lợi đây. Nếu chúng ta
không niệm A-Di-Đà Phật, thì thấy sắc nghe tiếng sẽ nổi vọng tưởng .
Vọng tưởng này chẳng dễ gì ngừng chỉ được .

Pháp môn
Đại-Thế-Chí này là tuyệt diệu. Tất cả việc khởi tâm động niệm toàn bộ
đều quay về trên một câu Phật hiệu, dùng câu Phật hiệu này thay thế cho
tất cả phân biệt, chấp trược, vọng niệm . Toàn quay về một câu Phật hiệu
này. Pháp môn này cực kỳ tuyệt diệu cho nên Đại-Thế-Chí mới cùng với
các đồng môn tu, chí đồng đạo hiệp của Ngài, gọi là đồng luân, đều là tu
Pháp môn này. Tức là một câu Phật hiệu, từ khi Sơ-phát -tâm cho đến lúc
Thành Phật. Tức là một pháp môn này, không dùng pháp môn thứ hai.

Bất giả phương-tiện tự đắc tâm khai. Tâm khai tức là chiếu kiến; công phu
đạt đến cứu cánh viên mãn; thành tựu viên mãn Lăng Nghiêm đại định .

Phương-pháp của Đại-Thế Bồ-Tát so với phương pháp của 24 vị kia, bao gồm luôn Quán
Thế Âm Bồ-Tát còn dễ hơn, còn tiện lợi hơn. Vả lại đặt biệt còn vững
vàng mau chóng .

Cho nên, Tu Tịnh-Độ phần quan trọng nhất của
Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, cái tinh-hoa chơn chánh của Kinh Lăng Nghiêm tức
là chương "Lời Dạy Bảo Thanh Tịnh Rõ Ràng" và chương "Đại-Thế-Chí Niệm
Phật Viên-Thông".

Đối với chúng ta vô cùng cốt yếu, vô cùng mật
thiết, vô cùng quan trọng . Nếu chúng ta nắm vững được, có thể y theo
đó mà tu hành . Chúng ta niệm Phật thì thành tựu Niệm Phật Tam-Muội

Vì thế đây là cách tu cùng những phương pháp tu khác thật không giống
nhau. Lấy quán hành để tu, cho nên nó chẳng phải trải qua sự việc để tu
theo. Trải qua sự để tu thì cần thời gian dài, thời gian xa...

Do đó trong các Đại-Kinh, Phật thường dạy rằng: "Bồ-Tát từ khi phát tâm
muốn tu hành thành Phật phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp, phải trải
qua 52 từng cấp".

Câu nói này chúng ta phải nghe cho rõ ràng:
"Bồ-Tát chiếu tu", chúng ta có phải Bồ-Tát không ? Không phải là Bồ-Tát
thì chúng ta không có phần .

Thế nào mới là Bồ-Tát ?

Có phải thọ xong Bồ-Tát giới thì là Bồ-Tát ?

Thọ xong Bồ-Tát giới, anh tự cho mình là Bồ-Tát, nhưng chư Phật, Bồ-Tát không nhìn nhận anh là Bồ-Tát .

Tiêu chuẩn của Bồ-Tát là gì ?

Kinh
Lăng Nghiêm là Đại Thừa Viên giáo; Kinh Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa cho đến
Kinh Vô Lượng Thọ đều là Đại Thừa Viên-giáo, Bồ-Tát của Đại-Thừa
viên-giáo, tiêu-chuẩn thấp nhứt là vị Sơ tín Bồ-Tát, Thập-Tín, Thập-Trụ,
Thập-Hạnh, Thập Hồi hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, năm mươi hai
cái vị thứ .

Thấp nhứt là quả vị Sơ tín Bồ-Tát .

Điều kiện của Sơ tín Bồ-Tát, trong Kinh dạy rõ ràng là phải đoạn hết Tam
giới, 88 phẩm kiến-hoặc mới là Vị Sơ tín Bồ-Tát . Từ chỗ này của họ mà
bắt đầu tính . Khi chúng ta đã thọ Bồ-Tát giới, 88 phẩm Kiến-hoặc đã
đoạn hết chưa ?

Hoà-Thượng Tịnh -Không tự thú nhận :

"Tôi chẳng nói kẻ khác mà chính tôi đây một phẩm cũng chưa được. Cho nên là Bồ-Tát giả!"

Trong Phập pháp có một danh từ là "Danh tự Bồ-Tát", tức là hữu danh vô thực .
Anh đã thọ Bồ-Tát giới rồi mà chỉ có tên chứ không thật .

Một vị Bồ-Tát chân thật phải đoạn 88 phẩm kiến -hoặc . cho thấy rằng chẳng
phải dễ dàng, chẳng phải đơn giản . Chính vì tôi vẫn còn một tí sáng
suốt, tự biết mình, biết chính mình là thứ giả, không thiệt, biết mình
không thể được, thì rồi mới theo học Đại-Thế-Chí Bồ-Tát .

Có lợi ích gì ? Là đới nghiệp vãng sanh. Thứ giả cũng có thể trở thành thiệt .

Đây là cái hay của pháp môn này . Pháp môn Niệm Phật Viên thông này (Hoà-Thượng Tịnh-Không dứt câu, hội trường vỗ tay vang dậy).

Ngoài pháp này ra, tứ giả mà tu theo pháp môn của họ, thì dù tu cách nào cũng
không thể biến thành thiệt được . Duy độc nhứt chỉ có niệm Phật, là nhờ
sự gia trì của bổn nguyện và uy thần của Phật A-Di-Đà; chỉ cần phương
hướng và mục tiêu của chúng ta không thay đổi; giả có thể thành chơn;
đới nghiệp vãng sanh. Các pháp môn khác chẳng có .

Đây là tại sao tất cả Kinh luận, mười phương chư Phật đều tán thán pháp môn này;
khuyến chúng ta tu pháp môn này . Thật là từ bi đã đến cực độ . Chư Phật
Bồ -Tát nhìn thấy rất rõ .

Nếu chẳng phải pháp môn này, thì
thời mạt pháp, chúng ta, những chúng sanh có nhiều nghiệp chướng sâu
nặng trong một đời, nhất định không thể thành tựu được .

Nhưng nếu anh áp dụng pháp môn niệm Phật này, dù nghiệp chướng có nặng hơn,
đều có thể thành tựu . Không những có thể thành tựu, nếu anh lý luận
thông đạt, biết rõ phương-pháp y giáo phụng hành vốn có thể lấy được
phẩm vị rất cao. Ngay cả ba phẩm thượng (tức Thượng Phẩm Thượng sanh,
Trung sanh, Hạ sanh) anh cũng có phần .

Thật là một pháp môn vô
cùng hy hữu . Cho nên chỗ này nói "tu chứng liễu-nghĩa", không cần
chiếu theo giai-cấp của Bồ-Tát; không cần 3 đại a-tăng-kỳ kiếp, trong
một đời là viên mãn, là thành tựu .

Như lời Phật dạy trong Kinh
Vô Lượng Thọ: "Mọi người đều là trong đời quá khứ nhiều kiếp lâu xa, đã
trồng thiện căn ấy . Thiện căn này vô cùng sâu dày . Trong đời này
chúng ta mới có thể gặp được Pháp môn này, mới có thể tin Pháp môn này,
mới có thể y theo Pháp môn này mà tu học".

Trong một đời này vĩnh-biệt Tam giới, viên thành Phật đạo, Vãng sanh bất thối thành Phật .

Trong một đời thành tựu, đây là căn lành của quá khứ . HIện tiền được A-Di-Đà
Phật và mười phương Như Lai oai thần gian-trì. Cho nên chẳng phải là
người bình thường .

Phật nói trong Kinh Vô Lượng Thọ, người
niệm Phật chẳng phải là phàm phu, chẳng phải người bình -thường đều là
những người phi-thường. Chư Phật Bồ -Tát đều rất tán thán, đều rất bội
phục .

Ý nghĩa của câu này vẫn chưa giảng hết, chỉ giảng một đoạn mở đầu .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Pháp sư Tịnh-Không trình bày chồ này rất chân thật, giúp cho người tu niệm
Phật thật nhiều . Ngài là một bậc xuất gia học Phật pháp cao thâm, nổi
tiếng từ Trung Hoa lục địa ra đến hải-ngoại . Chúng tôi đã xem một video
lúc Ngài giảng đạo tại Mã-Lai, số Phật tử tham dự đông đảo không thể
tưởng được . Trước tiên, cũng như bao nhiêu tăng sĩ khác, Ngài tu Thiền,
nhưng tu Thiền muốn đạt được quả Bồ-Tát phải đoạn 88 phẩm Kiến hoặc và
Tư hoặc dứt bỏ mọi phiền não, tà kiến, thì mới dứt được sanh tử trong
Tam giới, mà vượt ra khỏi Tam giới .

Tu đạo Phật là phải thực
chứng, còn hiểu nhiều và nói giỏi lý-thuyết chỉ là Kiến-giải. Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm dạy tu chứng liễu-nghĩa, chứ không tu kiến giải .

Các Thiền sư nói "Minh tâm Kiến Tánh thành Phật", đó là nói lý-thuyết . Một
vị phát tâm tu Bồ Tát phải trải qua 3 đại a-tăng-kỳ kiếp, trải qua 52
cấp . Tiêu chuẩn thấp nhứt là quả Sơ tín Bồ-Tát (tức Sơ Địa) rồi đắc lần
lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh v.v.... phải vượt qua 52 bậc thứ .

Ngài Tịnh-Không chân thật thú nhận: "Chính tôi đây một phẩm cũng chưa được!".

Đại Kinh nói: "Bồ-Tát từ khi phát tâm muốn tu hành thành Phật phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp"

Theo
Kinh A-Di-Đà Sớ Sao do Hoà -Thượng Thích -Hành -Trụ dịch: "Một đại kiếp
là 1200 tỷ 80 triệu năm. Ba đại kiếp là 3600 tỷ 240 triệu năm (trang
115).

Vậy chúng sanh thời này, ai có thể tu để thành Phật ?
Thuở tiền thân, Phật A-Di-Đà đi tu con người sống 80 ngàn tuổi, người ta
có thời gian lâu dài để tu tập . Bây giờ con người chỉ sống cao nhứt
100 tuổi, làm sao đủ thời giờ tu các hạnh Bồ-Tát ? Tu Bồ -Tát hạnh phải
thường thường gần Phật để được hướng dẫn . Thời mạt pháp này không có
Phật . Phải chờ trên 56 ức năm nữa Phật Di-Lặc mói hạ sanh.

Bây giờ Hoà-Thượng Tịnh-Không đã 75 tuổi tính vào năm 2001. Cuộc đời Ngài
gần hết rồi, nếu Ngài chết đi Ngài sẽ đắc được cái gì (?) dù rằng Ngài
đã là một Hòa-Thượng .

Chúng tôi kính trọng và quý mến,
Hoà-Thượng Tịnh-Không ở chỗ Ngài can-đảm nói lên sự thật và can đảm nhìn
vào sự thật, nên cuối cùng Ngài chọn Pháp môn niệm Phật và cương quyết
suốt đời còn lại giữ chặt trong tâm sáu chữ "Nam Mô A-Di-Đà Phật" để
được Vãng sanh Cực-Lạc, từ Bồ-Tát giả trở thành Bồ-Tát thật .

Viết tới đây, chúng tôi nhớ tới vị Hoà-Thượng xe buýt, một Hoà-Thượng
Việt-Nam, tuy già cả bịnh-hoạn, quanh năm ngồi xe buýt đến các chùa xa
xôi dạy Phật tử niệm Phật, giúp cho họ thoát 3 đường dữ mà được vãng
sanh về cõi Phật. Đây là chỗ Hoà-Thượng Thích-Trí-Chơn, vị Hoà-Thượng xe
buýt Việt Nam, thông đạt "Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu-Nghĩa". Đây là
cái nhân bí mật mà chư Như Lai dạy, ai hiểu được người đó thức chứng .


Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 7:58 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 7:55 am

CHƯƠNG HAI: VÃNG SANH BIẾT TRƯỚC NGÀY GIỜ, ĐỨNG VÃNG SANH, NGỒI VÃNG SANH!
Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm. Đây là Tôn Kinh, mà người tu tất cả các pháp môn đều
phải tu theo để chứng đắc, gọi là Tu Chứng Liễu -Nghĩa .

Cách giảng của Ngài thật đặt biệt và rất hữu ích cho chư Liên hữu, nên chúng
tôi nhân đây giúp cho chư Liên hữu hiểu, tu theo Hoà-Thượng giảng chắc
được vãng sanh.

Hoà-Thượng Tịnh-Không nói:

"Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, đối với người tu Thiền mà nói, thật là hữu hiệu. Lý
luận tuy là không sai, trên thực tế về mặt dụng công thì quả thật chẳng
phải là một việc quá dễ dàng .

Trong kinh-điển, Phật dạy chúng
ta mỗi người đều có sáu căn. Mỗi căn có sáu tiết. Vậy có tất cả 36 cái
tiết. Tuy căn, tiết nhiều như vậy, nhưng trên thực tế chỉ cần từ một căn
mà hạ thủ. Nói một cách khác, một căn được giải trừ là sáu căn đều viên
thông.

(Trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm này, mỗi đệ tử của Phật hay các vị Bồ-Tát chỉ chứng được một căn viên thông).

Hoà-Thượng Tịnh-Không tiếp:

-
Tuy nhiên, sáu tiết của một căn (muốn giải trừ) thì cũng chẳng dễ gì .
Vậy tôi xin đem danh xưng của sáu tiết này nói sơ qua với quý vị .

Sáu tiết, cái thứ nhứt là động, thứ hai là tịnh, thứ ba là căn, thứ tư là
giác, thứ năm là sâu, thứ sáu là diệt . Càng về sau càng khó .

Bây giờ không nói hết sáu cái .

Cái thứ nhứt anh có thể đạt được không ? Có thể giải toả được không ?

Động là khởi tâm động niệm. Cho nên Thiền Tông là từ thiền định mà hạ thủ .
Sau khi được định rồi thì cái thứ nhất là động. Cái tiết này giải trừ
xong, họ ở trong định. Định là cảnh giới của tịnh .

Còn giải cái tiết thứ hai thì kông dễ dàng. Giả như cái tiết thứ hai giải không
ra, trụ ở trong tịnh; quả báo của nó là Tứ Thiền Thiên, không ra khỏi
Tam giới . Tất cả sáu cái tiết đều giải khỏi, thì mới "Minh Tâm Kiến
Tánh", đại triệt đại ngộ .

Cho nên nói thì đơn giản, mà khi làm quả thật là khó khăn.

Để chứng minh điều mà Hoà-Thượng Tịnh-Không nói hoàn toàn đúng, Ngài nói tiếp:

-
Trước trong Tông Thiên Thai, Đàm Hư Lão Pháp sư vào thời năm đầu Dân
Quốc là vị tổ sư cận đại của Tông Thiên Thai, sau này ngụ tại Hong Kong
khi Quốc Dân Đảng bỏ lục đại . Ngài tuổi thọ rất cao, chín mươi mấy tuổi
mới vãng sanh, Ngài đã từng nói: "Trong một đời Ngài, cái mà Ngài thấy
được, nghe được, những người tu Thiền được định Ngài có thấy qua, nghe
qua, như là nhập định bảy ngày, nửa tháng, một tháng mới xuất định. Công
phu thiền định rất là thâm hậu. Trong Thiền Tông nói Minh Tâm Kiến
Tánh, đại triệt đại ngộ, Ngài nói trong đời Ngài chưa thấy qua; nghe,
cũng chưa từng nghe qua".

(Chẳng rõ chư liên hữu có ai được nghe các vị Thiền Sư Việt-Nam có ai được định bảy ngày, nửa tháng chăng ?)

Ngài Tịnh-Không nói tiếp:

-
Những người được đinh, căn cứ công phu cạn sâu; quả báo là ở Tứ Thiền
Thiên. Căn cứ công phu thiền định cạn sâu mà đạt Sơ Thiền, Nhị Thiền,
Tam Thiền, Tứ Thiền . Càng sâu nữa là đến Tứ không Thiên của vô sắc
giới, đi vãng sanh. Nhưng không thoát ra ngoài Tam giới . Điều này chúng
ta cần phải biết .

(Chữ Vãng Sanh trên đây có nghĩa là sanh về
một cõi khác, chứ chưa ra khỏi Tam giới . Mà tu theo Phật là phải chứng
quả, vượt khỏi Tam giới. Vì còn ở trong Tam giới là còn phải rơi vào ba
đường dữ. Cho nên Hoà -Thượng Tịnh-Không mới nhấn mạnh: "Điều này chúng
ta cần phải biết").

Hoà-Thượng Tịnh-Không nói tiếp: "Đàm Hư
lão pháp sư bảo: niệm Phật vãng sanh Tịnh-Độ thì thật sự có vãng sanh.
Khi lâm chung không sanh bịnh, biết trước ngày giờ. Đúng vãng sanh, ngồi
vãng sanh. Ngài bảo trong đời Ngài, chính mắt Ngài thấy được có hai
mươi mấy người. Còn nghe kể thì nhiều lắm. Ngài không có tính con số
người vãng sanh nghe nói lại. Chính mắt Ngài trông thấy hai mươi mấy
người biết trước giờ chết, lâm chung không bịnh khổ, đứng vãng sanh,
ngồi vãng sanh. Đó là sự thật không thể nào giả dối. Cách vãng sanh này
có thể nói là sau khi chúng ta nhìn thấy. Một tí tơ hào nào nghi ngờ
cũng chẳng có".

Lời của Tịnh-Hải:

Trong đời chúng tôi chưa từng thấy đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Nhưng có nghe nói ngồi
vãng sanh, như trường hợp Hoà-Thượng Quảng Khâm, Hoà-Thượng Thiền Tâm.
Vừa qua, chúng tôi được Tịnh Thất Viên Âm ở Santa Ana biếu một cuốn sách
mang tựa Long Thư Tịnh Độ, do Hoà-Thượng Quảng-Thiệp ấn tống trước khi
ngài viên tịch. Tác giả của sách Long-Thư Tịnh-Độ là Cư sĩ
Vương-Nhựt-Hưu, đã đắc quả vãng sanh biết trước ngày giờ . Ba ngày trước
khi vãng sanh, Cư sĩ Vương-Nhựt-Hưu đi viếng thăm từ giã mọi người
trong làng . Sáng hôm sau ông vẫn giảng kinh cho đệ tử . Đến nửa đêm,
ông đứng trước bàn Phật chờ vãng sanh. Ông đang niệm Phật liền ngưng lại
lớn tiếng nói: "Phật đến rước tôi". Dứt lời ông đứng ngay thẳng, chắp
tay mà vãng sanh.

Hoà -Thượng Tịnh -Không nói tiếp:

-
Sự thành tựu của Tịnh-Độ Tông đích thật so với Thiền-Tông dễ dàng hơn.
Vì thế cho nên, tu chứng liễu - nghĩa, nếu theo pháp môn niệm Phật của
chúng ta mà nói, tức là phương pháp mà Đại-Thế-Chí Bồ-Tát dạy chúng ta
trong bổn Kinh này, nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối tiếp .

Tám chữ này tức là tu chứng liễu-nghĩa .

Bây giờ thì lại có vấn đề: "nhiếp cả sáu căn tịnh niệm nối tiếp".

Vậy làm sao nhiếp cả sáu căn ?

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Để chư liên hữu dễ theo dõi và nắm vững vấn đề, chúng tôi xin được phép
trình bày cho rõ thêm một chút . Trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, theo
lời yêu cầu của Đức Phật, hai mươi lăm vị Bồ-Tát (Trong số này có một số
vị thị hiện làm A-La-Hán) mỗi người trình bày chỗ tu chứng của mình .
Đại Bồ-Tát Đại-Thế-Chí trình bày môn Niệm Phật Viên Thông, nguyên văn
như sau:

Ngài Pháp-vương-tử Đại-Thế-Chí cùng với năm mươi hai
vị Bồ-Tát đồng tu một pháp-môn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có Đức Phật ra
đời, tên là Vô-Lượng-Quang; lúc ấy mười hai Đức Như-Lai kế tiếp nhau
thành Phật trong một kiếp. Đức Phật sau hết, hiệu là
Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-Tam-Muội . Ví như có
người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu
gặp cũng là không gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu hai người đều
nhớ nhau, hai bên nhớ mãi khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với
bóng, cho đến đời này sang đời khác, không bao giờ cách xa nhau.

Thập-phương Như-Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, thì
tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ
con không xa cách nhau.

Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, thì hiện
nay hay về sau, nhứt định thấy Phật; cách Phật không xa, thì không cần
phương tiện, tâm sự được khai ngộ, như người ướp hương, thì thân thể có
mùi thơm, ấy gọi là Hương-quang trang-nghiêm.

Bản nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp Vô-sanh-nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-Độ .

Phật hỏi về Viên-Thông, tôi thu nhiếp tất cả sáu căn, không có lựa chọn,
tịnh niệm nối tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhứt .

Quý liên hữu đọc đoạn chót thấy mấy chữ :

"Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối tiếp".

Theo Hoà-Thượng Tịnh-Không, tám chữ này là chỗ tu chứng liễu nghĩa và Ngài giải thích:

- "Câu tịnh niệm nối tiếp tất phải nhiếp cả sáu căn".

Làm thế nào để được

tịnh niệm nối tiếp ?

Nhiếp cả sáu căn thì là tịnh niệm nối tiếp. Cho nên hai câu này có thể hổ-tương làm chú-giải cho nhau.

Chúng ta thật dụng công, chú trọng ở câu sau. Chúng ta niệm Phật, người niệm
Phật rất đông, mọi người đều niệm, có phù hợp với tiêu-chuẩn này không?
Tiêu-chuẩn này tức là tiêu-chuẩn của liễu-nghĩa .

Tịnh là tâm địa thanh tịnh. Nếu chúng ta niệm Phật mà vẫn còn tạp niệm, như vậy là không thanh tịnh, chẳng phải tịnh niệm .

Tịnh niệm nhứt định là không hoài nghi, không tạp niệm, không có một tạp niệm nào. Đây mới gọi là tịnh niệm.

Nối tiếp là không gián đoạn, tức là không trung đoạn . Cổ-đức thường dạy
cho chúng ta biết: "Niệm Phật phải không hoài-nghi, không tạp nhạp,
không gián đoạn". Đây tức là tịnh-niệm nối tiếp . Niệm cách này nhứt
định là nhiếp cả sáu căn.

Nhiếp cả sáu căn thì là không cần gì hỏi, cũng không cần phải nghĩ đến nó, thì tự nhiên sáu căn đều nhiếp.

Cho nên đây là người niệm Phật tu chứng liễu -nghĩa .

Còn chứng liễu -nghĩa cũng y theo cách nói của Tịnh -độ Tông.

Cách nói của Tịnh -độ Tông đều áp dụng Đại -Thế -Chí niệm Phật Viên-thông Chương.

Chứng liễu -nghĩa tức là Đại -Thế -Chí chỗ nói đến, không mượn phương tiện, tự được tâm khai mở . Đây là chứng liễu -nghĩa .

Một câu Phật hiệu niệm đến cùng, không mượn phương tiện, tức là không cần mượn bất cứ một pháp môn nào để giúp đỡ .

Chúng ta ở nhiều nơi nghe được, có người chủ trương Thiền Tịnh song tu. Đó
tức là mượn Thiền Tông để giúp đỡ . Có người chủ trương Mật Tịnh song
tu. Một mặt niệm Phật, một mặt lại còn trì chú, mượn Mật Tông để giúp đỡ
. Đây tức là mượn các phương tiện khác làm trợ tu. Đại-Thế-Chí Bồ-Tát
dạy chúng ta không cần, không dùng được . Một câu Phật hiệu niệm đến
cùng thì là được . Không mượn bất cứ phương-pháp nào để giúp đỡ .

Tịnh-Độ
Tông chỗ nói đến là Chánh trợ song tu. Chánh trợ là trì danh . Trợ tu
cũng là trì danh. Liên Trì Đại-sư và Ngẫu-Ích Đại sư đều dạy chúng ta
như vậy .

Cho nên tu chứng liễu-nghĩa này kết chặt trong pháp
môn niệm Phật của chúng ta . Tức là trong Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Phát
Bồ đề tâm một hướng chuyên niệm". Trong Kinh A-Di-Đà chỗ nói: "Nhứt tâm
bất loạn". Đây đích thật là "tu chứng liều-nghĩa của Tịnh Độ Tông".

Lời thêm của Tịnh-Hải:

(Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, phẩm Thứ Hai, Đức Phật nói: "Muốn vãng sanh
Cực Lạc chỉ cần xưng niệm danh-hiệu Phật là đủ". Vì danh hiệu Phật là
biểu -tượng của Pháp Thân, cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân
Phật . Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa ..."

Khi
hướng dẫn người muốn tu niệm Phật, chúng tôi thường đưa ra ví dụ: "Khi
chúng ta bị giam giữ trong một căn nhà thật kiên cố, muốn thoát ly, nếu
chúng ta phá chỗ này một chút, rồi lại chỗ kia phá một chút, thì sẽ được
như ý hay là ta nên tập trung nhắm vào một chỗ để khoan, để phá ?
Dĩ-nhiên ai ai cũng trả lời; tập trung vào một chỗ".

Khi nói điều này ra, chắc có người sẽ hỏi chúng tôi, vậy tại sao ông còn nêu ra vấn đề "Niệm Phật trì chú, cứu độ thân nhân ?".

Xin trả lời, hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Chúng ta ai ai cũng có nhiều
ông bà cha mẹ trong nhiều đời . Đọc kinh, chúng ta phân vân không biết
những ông bà cha mẹ ấy đang luân chuyển ở nơi nào ? Khi áp dụng niệm
Phật và trí chú chúng ta chỉ thực hiện một thời gian ngắn rồi thôi,
không cần phải hành trì một thời gian dài . Sau đó chúng ta nên nhứt tâm
giữ chặt một câu A-Di-Đà Phật hoặc Nam-Mô A-Di-Đà Phật . Vì nếu vừa
niệm Phật, vừa trì chú vẫn còn tán tâm.

Trước đây Hoà -Thượng Tịnh -Không nói: " Theo đúng Kinh Thủ -Lăng -Nghiêm là Kinh dạy tu chứng
liễu -nghĩa cho hành -giả tu các pháp môn nói chung muốn chứng đắc sơ
-địa Bồ -Tát phải đoạn trừ 88 pháp lâu hoặc, rồi phải trải qua đắc chứng
từng cấp trong 52 cấp . Đầu tiên từ Sơ địa bồ -Tát tức Sơ tín Bồ -Tát
rồi lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập hồi hướng, Thập Đại, v.v..."

Còn tu niệm Phật, theo Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức Phập nói:

"Pháp môn niệm Phật chính là chuyển biến cái Tâm thể của chúng sanh, bằng
cách không để cái Tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc,
thanh, hương, vị, xúc và pháp (đây là chỗ nhiếp cả sáu căn của Bồ-Tát
Đại-Thế-Chí).v.v... Mà chỉ đem Tâm-thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam Mô
A-Di-Đà Phật, thấy mình sanh vào cõi nước Cực Lạc, thân mình ngồi trên
toà sen báu, nghe Phật và Bồ-Tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa
đảnh ....

Lại nữa, nếu có chúng sanh nào chí thành xưng danh
hiệu Nam Mô A-Di-Đà Phật, thì uy-lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến
cho Tâm thể ấy thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề biết, tự nhiên
chứng nhập Sơ-phần Pháp thân.

Chứng Sơ-phần Pháp thân tức là Chứng Sơ tín hay Sơ-địa Bồ-Tát.

Cho nên phải biết Pháp môn Niệm Phật thật là thần diệu . Đức Phật nói tiếp :

"Nên
biết rằng được vãng sanh thì không bao giờ trở lại địa phàm phu với
thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó mới gọi là Bất-thối-chuyển. Từ đó về sau lần
lần thành tựu mười thứ trí lực, mười tám-pháp bất cộng, năm nhãn, sáu
thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô số Tam-muội, thần thông du-hí, biện tài vô
ngại ...đầy đủ bao nhiêu công-đức vô lậu của Đại Bồ-Tát".

Gần 10 năm trước đây (từ 1993) Hoà-Thượng Tịnh-Không nói, một phẩm của quả
vị Sơ địa Bồ-Tát Ngài cũng không đạt được . Còn ở đây Đức Phật nói,
người niệm Phật tinh chuyên sẽ được đầy đủ bao nhiêu công-đức vô-lậu của
một Đại Bồ -Tát . Vì vậy mà Ngài Tịnh -Không quyết tu theo Pháp môn
Niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc . Còn niệm Phật cách nào chặc được vãng
sanh, Hoà -Thượng Tịnh -Không đã nói rõ ràng trong Chương Niệm Phật Viên
Thông của Đại Bồ -Tát Đại -Thế -Chí: "Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối
tiếp". Niệm Phật cho tới khi tâm tình là được "đại định" và nối tiếp
"đại định" là sẽ được "đại trí tuệ".

Y cứ vào Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, theo lời trình bày của Trưởng giả cư sĩ Diệu-Nguyệt chúng tôi trích lại:

"Vào thời Chánh-pháp cuối cùng (tức thời mạt pháp này), nếu ai phát khởi
tâm-chí-tu-hành, cũng không thể tu tập các môn Giới luật, thiền định,
trí tuệ ...không thể tu tập bằng các phương tiện của Quán-Trí để
ngộ-nhập Phật-Tri-Kiến . Không thể tu chứng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà hàm,
A-na-hàm. Không thể chứng nhật Sơ-Thiền, nhẩn đến Tứ Thiền ....

Nói chung, không thể tu chứng đắc thiền định .

Hoà-Thượng Tịnh-Không, y cứ vào Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm chứng minh tu thiền định phải
dùng "Diệu Sa-ma-tha, Tam-ma-địa, Thiền "Na" khi sáu căn gặp sáu trần,
chỉ dùng "căn tánh" chứ không dùng "thức", thì mới được "Minh tâm Kiến
-Tánh . Còn tu hành mà chỉ dùng thức, thì dù được "Tứ Thiền thiên" vẫn
là được cái định của phàm phu, thì chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi .

Trái lại nếu áp-dụng pháp môn Niệm Phật Viên Thông Chương của Ngài
Đại-Thế-Chí thì, sẽ "tu chứng liễu-nghĩa Bồ-Tát Vạn-hạnh" của các bậc
Bồ-Tát mà Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm đã dạy .

Xét lại, lời trình bày của Pháp sư Tịnh-Không quả là thâm diệu .


Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:01 am

CHƯƠNG BA: CẦN HIỂU NGHĨA VỀ "DIỆT ĐOẠN VÀ PHỤC ĐOẠN" TRONG PHẬT PHÁP!
Pháp sư Tịnh-Không giảng tiếp:

-
Trong hội Thủ-Lăng-Nghiêm, chương Thanh Tịnh Minh Hối, Đức Phật vì
thương chúng sanh đã giảng về "Tứ trọng giới", tức là 4 giới quan trọng
cho người tu thiền định - Đức Phật bảo Ngài A-Nan:

"Nếu chúng sanh lục đạo các thế giới, cái tâm không dâm, thì không theo dòng sanh
tử tiếp tục . Ông tu phép Tam muội (thiền định) cốt để ra khỏi trần-lao,
nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được . Dẫu có
nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lọt
vào ma đạo, hạng trên thành Ma-vương, hạng giữa thành Ma-dâm, hạng dưới
thành Ma-nữ; các bọn ma kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành
đạo vô-thượng . Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều
bọn ma này sôi nổi trong thế gian, gây nhiều việc tham-dâm, lại giả làm
Thiện-tri-thức . Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-đề (tức tu thiền
định), trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy-bảo
rõ ràng thanh-tịnh, quyết định thứ nhứt của các Đức Như-Lai Tiên-Phật
ThếTôn.

Vậy nên, ông A-Nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền
định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua
trăm nghìn kiếp cũng gọi là cát nóng, đá nóng .

Vì cớ sao ?

Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy . Ông đem
thân dâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ, cũng chỉ là gốc dâm,
cội gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra
khỏi, con đường nào tu chứng Niết Bàn Như-Lai ? Chắc phải khiến cho thân
tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tánh-đoạn cũng không còn nữa, thì
mới trông mong chứng quả Bồ-đề của Phật . Như lời tôi nói đây, gọi là
lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần".

Câu trên đây trích nguyên văn lời Kinh dạy . Đức Phật gọi đây là quyết-định thứ nhứt của các Đức Như-Lai Tiên-Phật Thế-Tôn.

Tới đây chúng ta thấy có ba từng lớp:

1.
Một là phải vượt qua giai-đoạn đầu của "Mật Nhân Tu Chứng Liều-Nghĩa,
Bồ-Tát Vạn-Hạnh" Là phải biết dùng "căn tánh", khi sáu căn tiếp-xúc với
sáu trần . Nếu chưa biết được thì chưa bước được vào cửa ngõ của "Diệu
Sa-ma-tha", thì vẫn còn ở "Thiền của phàm phu" ngoại đạo .

2.
Hai, khi biết áp dụng "tánh căn", thì vượt lên từng thứ hai, bước vào
dòng Thánh, áp dụng "Tứ trọng giới" tức 4 giới cấm căn bản của Như-Lai
Tiên-Phật Thế-Tôn, là trừ tâm Dâm, tâm Sát, tâm Thâu đạo, tâm Vọng ngữ.
Đây không phải là 4 danh từ suông, mà trong mỗi một điều nếu còn một tí
tơ hào cũng không qua được. Đơn cử một vài thí dụ thật nhỏ, nếu một
người nói pháp mà trong đó có một chút xíu ẩn ý lợi dưỡng (tức là gây
chút lợi để nuôi dưỡng mình cũng là không được, là thâu đạo), hay thí dụ
khác, một đề cao pháp môn tu của mình khi giảng pháp, dùng Kinh
giải-nghĩa sai ý Phật (dù là cũng giảng Kinh) cũng sẽ kohng^ thể được,
sẽ phạm vào giới "đại vọng ngữ", thế gian gọi là "không trung thực".
Nhứt thời người giảng pháp được nhiều người theo vì họ không hiểu biết,
nhưng phạm một trong bốn trọng giới, cửa địa-ngục khó thoát .

Vượt thắng bốn trọng giới này thì mới được "cái định" của nhà Phật. Đừng bao
giờ nghĩ ngồi Thiền, mà chẳng giữ đúng 4 giới Thủ-Lăng-Nghiêm, chẳng
những không được cái gì, mà còn mang hoạ .

3. Ba, nếu qua được 4
trọng giới cấm, sẽ bước lên tầng cuối cùng, sẽ tiến vào Bồ-Tát đạo,
thực hành Vạn-hạnh, để sau ba đại A-tăng kỳ kiếp trở thành "Bổ xứ
Bồ-Tát".

Vậy, trừ chư Tăng Ni xuất gia, chư Phật tử còn sống
với gia-đình vẫn còn quay lăn trong dâm dục, không thể tu thiền định để
có được kết quả tốt ? Đức Phật nói thật rõ: "Ông đem thân dâm cầu
hiệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cổi gốc đã
thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ" (Tam đồ tức là Địa ngục, Nga
quỷ, Súc sanh). Chắc không ra khỏi, con đường nào tu chứng Niết Bàn
Như-Lai ?

Tuy nói là Tăng Ni xuất gia có thể tu thiền định,
nhưng trong khi hạ thủ công phu cũng đòi hỏi phải đúng pháp thiền định
thì mới mong thành công. Phật lại dạy phải niệm chú Thủ-Lăng-Nghiêm thì
mới vượt khỏi ma-chướng. Xin hãy đọc lời giảng thật rõ ràng của
Hoà-Thượng Tịnh-Không .

"Giới là phương-tiện đi trước của định
tuệ cũng tức là căn bản của tu tịnh khai tuệ . Nếu như không có tịnh
giơi, cái tiêu chuẩn của tịnh phải theo lời dạy của Phật trong Kinh
nầy".

Quý vị học Phật đồng tu của chúng ta.

Ở đây, tu pháp môn niệm Phật chiếm đa số . Có người niệm Phật vì sao không được
nhứt tâm bất loạn; thậm chí chúng ta đem tiêu-chuẩn này hạ thấp xuống
dưới một tí, là công phu thành một mảng . Niệm Phật đã bao nhiêu năm nay
công phu thành một mảng cũng không đạt được . Tham thiền thì không được
thiền định . Học giáo cũng không được viên giải . Nguyên nhân này ở chỗ
nào ?

Chúng ta từ trong truyện ký, chư vị cổ đức xưa kia bất
luận xuất gia hay tại gia, tu đạt cảnh giới này hầu như không khó . Thời
gian cũng không quá dài . Người lợi căn thì ba năm, năm năm thì đạt
được . Người độn căn thì mười năm, tám năm. Những người thành tựu rất
nhiều . Vì sao chúng ta hôm nay không đạt được ? Tỉ mỉ để truy cứu cái
nguyên nhân của nó thì chẳng khó hiểu được. Mà là, chúng ta từ nơi công
tác cơ bản chưa làm được tốt . Như là cất nhà nền móng không xây được
vững. Tuy là cố gắng cất lên, cố gắng chẳng đặng thành công. Đạo lý là ở
chổ này. Nhứt là người thời nay học Phật rất là tân thời. Không những
trong nước rất tân thời, mà ở nước ngoài cũng rất tân thời. Đối với Kinh
luận họ rất ưa thích, nhưng khi nói đến giới luật thì lắc đầu. Vả lại,
đối với giới luật lại con có một từng hiểu lầm .

Hiểu lầm như thế nào ?

Họ đều cho rằng giới luật là quy phạm của sanh hoạt. Nói đến giới luật là
nghĩ đến ba ngàn năm về trước, là quy phạm sanh hoạt của người Ấn-Độ
thuở xưa, không thích hợp với người hiện đại. Vì vậy, cho nên chúng ta
đem giới luật bỏ mất . Cho dù còn lưu lại một vài hình-thức cũng chẳng
thật tình để thể hiện. Dĩ-nhiên cũng chẳng thiết tha để thi hành . Đây
là vì sao chúng ta chẳng có được công phu thành một mảng; tham thiền vì
sao chẳng được thiền định ?

Nguyên nhân căn bản là ở chỗ này .

Cho nên phần chú giải của Giao Quang Đại sư là do Giao Quang Đại sư làm ra. Vừa mở đầu là nói với chúng ta:

"Đây là căn bản của định tuệ . Tiền phương tiện là căn bản . Thông thường hể
nói đến giới luật đều là nói Sát-Đạo-Dâm. Đem việc không sát sanh đặt ở
điều một. Ngũ giới nó là giới thứ nhứt. Tám giới, nó cũng là thứ nhứt .
Bồ-Tát giới nó vẫn còn thứ nhứt. Do đây có thể biết trên hội Lăng
Nghiêm. Phật vì chúng ta tuyên nói tứ trọng giới là đem Dâm Giới đặt ở
thứ nhứt . Thứ lớp là Sát, Đạo, Vọng .

Tại sao tuần tự đối với các giới luật thông thường không giống nhau?

Giao Quang Đại sư ở đây cũng vì chúng ta mà nói rõ. Chư Phật Bồ-Tát tiếp dẫn
tất cả chúng sanh là lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa. Tôi nghĩ
điều này các đồng tu đều biết (buổi giảng giải của Pháp sư Tịnh-Không có
nhiều Pháp sư. Đại Đức Tăng Ni cả Thiền lẫn Tịnh tham dự ). Từ bi làm
gốc, không sát sanh tức là bi chơn thật. Cho nên đem không sát sanh đặt
vào điều thứ nhứt . Còn sự thành hình của Kinh này thì khác . Bộ Kinh
này chơn duyên của nó rất là đặc thù . Giáo khởi nhơn duyên cùng các
Kinh khác không giống nhau, là do Ngài A-Nan khải thỉnh, cùng với sự tu
học của A-Nan có quan hệ mật thiết. Kinh Lăng Nghiêm nhơn duyên pháp
khởi, A-Nan, chúng ta được biết là thị quả của Đức Thích Ca. Trong các
đệ tử của Phật, Ngài là đa văn đệ nhất . Lại là người được truyền thừa
Phật pháp . Chúng ta hôm nay có duyên đọc được rất nhiều Kinh Phật đều
là do A-Nan kết tập, lưu truyền cho hậu thế. Công đức của Ngài đối với
chúng sanh ở hậu thế, thật là vô cùng lớn lao.

Do bởi đa văn
nên đối với tu hành Ngài đã xao lãng mất . Quý vị nên biết Phật pháp là
giải môn và hành môn. A-Nan lại chú trọng ở Giải môn (tức là chú trọng ở
Kiến Giải).

Chú trọng nơi Kinh giáo, xao lãng việc tu học chân
chánh . Còn hành môn là tu cái gì ? Điểm này bất luận các vị đồng tu
tại gia hay xuất gia đều phải hiểu rõ. Tu học Phật pháp đều là một chữ
"định". Bất luận là Pháp môn nào, Tông phái nào, tất cả tu đó đều là
"thiền định". Cho nên quý vị đừng hiểu lầm Thiền Tông mới là tu thiền
định .

Còn những Tông phái khác không phải là thiền định sao? Chỉ là các Tông, các Phái dùng danh xưng không giống nhau.

Thiền Tông gọi là định .

Tịnh Độ Tông gọi là Nhứt tâm bất loạn. Nhứt tâm bất loạn tức là thiền định .

Trong giáo hạ gọi là chỉ quán .

Tông Thiên Thai có Thiên Thai Ma-ha chỉ quán, Thiên Thai Tiểu chỉ quán .

Hiền Thủ Tông Hoa Nghiêm có Pháp giới quán,

Danh xưng không giống nhau, kỹ thuật đều là tu định . Nói một cách khác, tất cả đều là trong nhứt tâm. Nhứt tâm tức là định.

Trong hội Lăng Nghiêm, chúng ta xem 25 Viên Thông chương. Hai mươi lăm vị
Bồ-Tát này, đại biểu những tông phái khác nhau. Tuy tông phái khác nhau,
phương pháp khác nhau; họ tu đó đều là Thủ-Lăng-Nghiêm Đại-Định. Đây là
nói rõ với chúng ta, trung tâm tu học Phật pháp là "định".

Giới là giúp cho chúng ta được định, là điều kiện quan-trọng. Bỏ giới mà
được định là tuyệt đối không thể được. Nếu như có thể được, thì Phật đối
với giới luật chẳng cần nhấn mạnh với chúng ta làm gì .

Đối với chúng ta chẳng cần nghiêm khắc như vậy .

Có thể nói, Giới là cơ sở chơn thật duy nhứt để tu định, chúng ta không thể không coi trọng .

A-Nan do bởi xao lãng việc tu định, đối với lý luận thì Ngài rất thấy hứng
thú, ngày ngày đều nghiên cứu giáo lý . Vậy nên, khi gặp phải
Ma-đăng-già nữ thì lại gặp nạn . Nếu chính mình có định, có tuệ thì
Tiên-Phạm -Thiên chú của Ma-đăng-già nữ không thể câu thúc được A-Nan.
Là vì công phu định tuệ của Ngài chưa đủ, cho nên gặp phải nạn này .

Thế
Tôn biết được việc này, sau khi Ngài ứng cúng tại hoàng cung, thông
thường sau đó đều phải thuyết pháp; nhưng Ngài lật đật trở về giúp đỡ
cho A-Nan.

Vì vậy Tôn giả A-Nan lần này mới thật sự giác-ngộ,
do không có tu hành . Đây là có giải (kiến giải) mà không có tu hành
cũng vô dụng thôi.

Khi anh tu hành chơn chánh, trong giới luật
giới Dâm là đệ nhứt . Tất cả chúng sanh - đây là nói chúng sanh trong
lục đạo - đều lấy dâm dục mà chứng sanh mạng . Anh vì sao ở trong lục
đạo đầu thai, xả thân và thọ thân, là vì cái niệm này chưa dứt . Nói một
cách khác, niệm này không dứt (tức là niệm Dâm) thì không ra khỏi Tam
giới . Quý vị nên nhớ cái niệm Dâm về sự tuy không có - Sự không có vẫn
chưa được . Anh có cái niệm là không được rồi . Niệm thô tuy không có,
nhưng anh còn có cái niệm tế vẫn không được .

Phật trong các kinh luận thường nói: "Tài, sắc, danh, thực, thuỳ ....Dâm dục là sắc,
cái sắc trong ngũ dục nói đến và cái sắc trong ngũ uẩn không giống nhau.
Cái sắc trong ngũ uẩn là nguyên trọn cả vật chất; lấy chữ này làm đại
biểu còn cái sắc trong ngũ dục là chỉ sắc dục của nam nữ, chỉ cho dâm
dục là năm cái gốc của địa ngục .

Tất cả lục đạo chúng sanh
không lọt khỏi Tam giới luân hồi . Phật nói với chúng ta, nhứt định thời
gian trong tam ác đạo (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh) thì dài, tam thiện
đạo thì ngắn (Trời, A-tu-la, Người thì ngắn).

Trong Kinh có một tỷ dụ nói rằng: "đầu xuất đầu mọc, đem Tam giới ví dụ cho biển khổ".
Chữ đầu xuất tức là dưới đáy biển ló đầu lên, hô hấp một luồng không khí
tươi mát, thời gian này rất ngắn, nhào lộn một cái thì lại lặn hụp
xuống dưới . Phía dưới là Tam ác đạo, phía trên là nhơn thiên hai đạo .
Tỉ dụ này là để nói rằng: lục đạo chúng sanh chúng ta, ở trong hai đạo
nhơn thiên thì rất ngắn, cơ hội rất ít . Ở trong Tam ác đạo thời gian
rất dài, cơ hội rất nhiều .

Nguyên nhân là ở đâu? Là tham trước tài, sắc, danh, thực, thuỳ . Tham trước ngũ dục, lục trần .

Trong ngũ dục nghiêm trọng nhứt là sắc . Cho nên Phật ở chỗ này, cái thứ nhứt
là đem cái nhân tố sanh tử, cái nhân tố chủ yếu nhứt vì chúng ta mà đề
ra, chỉ dạy cho chúng ta: nếu quả thật muốn trong một đời vượt khỏi dục
đạo luân hồi, thì anh tất phải tuân thủ, "Niệm Phật cầu sanh Tịnh Đồ",
cũng chẳng khỏi rời nguyên tắc này . Nếu cái niệm này (tức cái niệm Dâm)
không dứt thì dù công phu niệm Phật của anh dù hay hơn, cũng không thể
vãng sanh.

Là nguyên nhân gì ?

Anh có một sợi dây buộc
vào thế giới Ta bà. Sợi dây này khi chưa cởi ra, Phật A-Di-Đà có vẫy
tay tiếp dẫn anh, anh cũng chẳng đi được, vì có người ở chỗ này đang lôi
kéo anh, tức là cái vọng niệm lôi kéo anh, khiến anh không thể vãng
sanh. Vì thế phải đem nó dứt cho sạch.

Cho nên ở Kinh này, vừa
mở đầu, Đức Phật đem cái căn bản sanh tử nói ra: "Nếu lục đạo chúng sanh
trong các thế giới". Câu này chúng ta tuyệt đối không thể hàm hồ, sống
sượng mà xem sơ qua. Các thế giới chẳng phải là cái Ta bà thế giới của
chúng ta. Nói một cách khác, Thập phương Tam Thế nhứt thiết chư Phật Thế
giới, chỉ cần có lục đạo chúng sanh, thế giới ấy đều là tình trạng này,
đều không thể lìa khỏi nguyên tắc này .

Phật nói:

"Cái Tâm không dâm, trong tâm thật sự đem cái niệm dâm dục đoạn dứt sạch sẽ,
không còn nữa thì họ sẽ không đi theo dòng sanh tử nối tiếp". Sanh tử
nối tiếp tức là lục đạo luân hồi . Nói một cách khác, họ không theo, tức
là vượt khỏi sanh tử luân hồi rồi .

Giờ đây chỉ biết, chỉ cần
niệm này chưa dứt (tức là cái tâm dâm) thì nhất định họ không ra khỏi
Tam giới, nhất định phải còn tiếp tục sanh tử luân hồi .

Đây là Phật đem chân tướng chúng ta một đời nói toạt ra hết . Chơn tướng thật
sự này, những người biết đến thật sự thời quá ít . Quá ít!

Điều này quý vị nhất định phải biết . Chơn tướng sự thật đã nói ra rồi .

Hoà -Thượng Tịnh -Không nói tiếp, xin xem tiếp Kinh văn ở dưới:

"Ông tu phép tam muội, để ra khỏi trần lao. Nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần lao được".

Chữ ông ở đây là gọi A-Nan, đồng thời cũng là gọi chúng ta. Chúng ta ngày
nay niệm Phật. Niệm Phật hy vọng được nhất tâm bất loạn . Nhất tâm bất
loạn gọi là Niệm Phật Tam Muội. Thật tế mà nói, công phu cạn, công phu
thành một mãng đều được gọi là Niệm Phật Tam Muội. Niệm Phật Tam Muội là
tên gọi chung, lấy công phu cạn sâu mà chia ra. Thông thường chia ra
thành ba hạng. Cạn nhất là thành một mảng, câu phương ngôn thành phiến
(trong câu "đả thành nhứt phiến", lời Tịnh-Hải); kế đến là sự nhất tâm
bất loạn; cao nhất là lý nhất tam bất loạn. Tất cả đều gọi là Niệm Phật
Tam Muội.

Chúng ta cũng đang tu Niệm Phật Tam Muội .

Tu
Niệm Phật Tam Muội mục đích là ở chỗ nào ? Là phải vượt khỏi Tam giới .
Trần lao là đại danh từ của Tam giới và lục đạo. Trần là ô nhiễm. Tam
giới lục đạo thường làm ô-nhiễm chơn tâm bản tánh của chúng ta. Cho nên
dùng chữ trần lao để đại biểu. Chữ lao là phiền não. Vậy thì chúng ta
biết, trong Tam giới đã chứa đầy kiến tư phiền não. Nếu kiến tư phiền
não không dứt thì ta không ra khỏi Tam giới .

Thiền định của
thế gian là tứ thiền bát định . Công phu thiền định tuy rất sâu, vẫn
không ra khỏi Tam giới . Nhứt định phải đến cái định thứ 9. Cái định thứ
9 thì đem kiến tư phiền não đoạn dứt, vượt khỏi Tam giới . Cũng tức là
như đoạn trên Phật nói: "Sát Đạo Dâm Vọng ngay cả cái niệm cũng không
có". Thật vậy, vọng tưởng đã dứt như vậy mới được ra khỏi Tam giới . Nếu
như tâm Dâm không trừ, thì không ra khỏi trần lao, nói một cách khác,
ra không khỏi lục đạo luân hồi .

Có một vị đồng tu bảo: "Việc này quá khó!"

Đúng là khó !

Trong Tịnh Độ Tông nói "đới nghiệp vãng sanh", vị đồng tu ấy hỏi tiếp: "Cái niệm này của tôi chưa dứt có vãng sanh được không ?"

Ở đây tôi xinh thành thật thưa với quý vị:

-
Đoạn có hai loại. Một loại gọi là diệt đoạn, một loại gọi là phục đoạn.
Phục tức là đem nó đè xuống. Tuy nó có niệm, nhưng nó không khởi tác
dụng. Diệt đoạn thì khó, nhưng phục đoạn thì dễ . Cái trong Kinh nói là
diệt đoạn . Vì Kinh này chẳng phải đối với Tịnh Độ Tông mà nói . Nói một
cách khác, tu các pháp môn khác, phải diệt đoạn mới ra được khỏi Tam
giới . Còn tu phap môn Niệm Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
không diệt đoạn cũng được, chỉ cần phục đoạn .

Phục đoạn bằng cách nào ?

Dùng một câu A-Di-Đà Phật đem cái niệm này khống chế nó . Có người ví như
lấy đá đè cỏ . Pháp môn khác là chặt cỏ, nhổ gốc . Cái đó dĩ nhiên là
rất triệt để .

Còn Tịnh Độ Tông chẳng cần chặt cỏ nhổ gốc . Chỉ
lấy cục đá đè lên là được . Không còn thấy nữa, như vậy là được . Nó
không khởi tác-dụng nữa . Như vậy là được vãng sanh. Cho nên sự thành
tựu của Tịnh Độ Tông so với các môn phái khác dễ dàng hơn.

Chúng
ta thật tình mà thôi, cảnh giới này trong một đời này, chúng ta không
dễ gì thành tựu . Vọng niệm của ngũ dục, lục trần - đối với người tu
thiền định - đoạn dứt thật là khó khăn; nhưng một câu Phật hiệu niệm
được đắc lực, đem niệm này đè lấp nó, tôi nghĩ mỗi người đều có thể làm
được . Đây là chỗ thù thắng không chi sánh bằng của Pháp môn Tịnh Độ .

Anh đoạn dứt càng sạch thì càng thù thắng . Khi nãy đã nói, khi chúng ta có
thể đè bẹp được phiền não thì đới nghiệp vãng sanh vào "Phàm Thánh Đồng
cư Độ". Nếu chúng ta có thể đem phiền não đoạn dứt, thì vãng sanh Cực
Lạc thế giới sẽ là Thật Báu Trang Nghiêm Độ .

(Xin lưu ý hai chữ phục đoạn và diệt đoạn dứt nói trên đây. Lời Tịnh-Hải).

Hoà-Thượng Tịnh-Không nói tiếp:

-
"Tu học các Pháp môn khác, đem vọng niệm đoạn dứt như trong kinh nói
trên thật đã thành tịnh, tánh diệt cũng không thì cảnh giới của nó mới
là cảnh giới Phương Tiện Hữu Dự Độ vì vô minh chưa hết gọi là hữu dư.
Còn Tịnh-Độ Tông của chúng ta muốn có cảnh giới này thì đạt đến Thật Báu
Trang Nghiêm Độ .

Bây giờ xin nghe Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp đoạn Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm:

"Nếu như anh không đoạn dứt lòng dâm không những không ra khỏi tam giới,
chắc phải đoạ vào loài ma, yêu ma quỷ quái: Dù có nhiều trí thiền định
hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, tức phải lạc vào ma đạo".

Trí từ đâu mà có được ? Dĩ-nhiên nhất định chẳng phải là trí tuệ chơn thật .
Chúng ta biết được trí tuệ chơn thật từ thanh tịnh tâm mà sanh ra. Là
từ chơn tâm bản tánh lồ lộ ra. Đó là Trí-tuệ Bát-Nhã . Còn trí-tuệ nói ở
đây, tức là trong Phật pháp thường nói, Thế-trí Biện-Thông, đó là thông
minh trí-tuệ của thế gian. Họ có thiền định hiện-tiền là thiền định thế
gian. Nếu như ta học được Vô Cùng Như Pháp, đó tức là như trong Kinh
nói Tứ Thiền Bát định, thiền định này khi nó hiện tiền những người thế
gian thông thường như chúng ta nếu thấy được cũng vô cùng tán thán ...
Giả tỷ như khi họ nhập định có thể mười ngày nửa tháng không xuất định .
Thậm chí những người công phu thiền định sâu hơn, khi nhập định có thể
hai ba tháng mưới xuất định. Vậy thì chúng ta gặp những hạng người này
nhứt định 5 vóc sụp xuống đất bội phục đến tột cùng . Họ thật có công
phu. Đây là hạng đạt được thiền định.

(Tứ Thiền Bát Định có
nghĩa: Tứ Thiền là Tứ Thiền của trời sắc giới . Bát Định là Trí vô sắc
định của trời vô sắc giới . Theo Phật học Từ Điển Hán- Việt ).

Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp:

-
"Đây là hạng được thiền định . Nhưng được thiền định này có ra khỏi Tam
giới không ? Không! Nếu như họ có công phu đó, quyết tâm niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, đó thì nhứt định thành công, nhứt định được vãng sanh. Nếu
như họ không cầu vãng sanh Tịnh-Độ, tương lai họ sẽ vãng sanh Sắc giới
Thiên và Vô Sắc giới thiên, nhưng không thể ra khỏi Tam giới . Nếu như
"niệm Dâm" của họ không đoạn, thì họ sẽ rơi vào "Ma đạo" mất . Điều đó
là vô cùng, vô cùng đáng tiếc!

Đặc trưng của ma là gì ? Chúng ta dùng phương pháp gì để biết nó là ma ? Phần trước đã nói với quý vị,
ma không đáng sợ, quan trọng anh phải nhận biết nó . Anh nhận biết nó,
sẽ không bị nó làm hại . Nó cũng không làm chướng ngại anh. Nếu anh
không nhận biết nó, thì anh sẽ bị mắc lừa, anh sẽ bị nó hại . Nó sẽ làm
chướng ngại cho anh. Đặc trưng của ma là tâm dâm không dứt . Đây nhứt
định là ma, cho dù mang mấy chiều bài của Phật, niệm dâm hạnh dâm không
dứt, thì chúng ta biết liền . Đây là ma vương xuất hiện .

Hạng trên thành Ma Vương.

Hạng trên là người công phu thiền định sâu (mà còn tâm dâm). Nó có công phu
thiền định, nó cũng có trí tuệ, thậm chí nó giảng Kinh nói pháp cũng lớp
lang đàng hoàng, thật cũng có thần thông. Có định tức là có thần thông.
Thần thông này, theo như Kinh Lăng Nghiêm nói là hai thứ nguyên lai.
Một thứ là từ trong thiền định sanh ra. Còn thứ hai là ma nhập vào thân.
Thần thông này là chẳng phải của người đó, mà ma nhập vào thân người đó
. Ma mà rời khỏi thì năng lực thần thông cũng mất hẳn . Cho nên thần
thông có hai loại . Phật, Bồ -Tát tuyệt đối không dùng thần thông làm
Phật sự . Nói một cách khác không dùng phương-pháp này tiếp dẫn đại
chúng .

Hạng giữa thành ma dâm, hạng dưới thành ma nữ . Các bọn
ma kia cũng có đồ chúng . Mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Những
loại yêu ma quỷ quái này trong xã hội hiện nay của chúng ta, trong Kinh
Lăng Nghiêm nói rất rõ ràng . Các ...loại Tà sư nói Pháp như hằng -hà
sa. Tức là trong thời đại này, những loại người này thật nhiều, thật
nhiều . Nếu chúng ta không nhận biết chúng nó, học Phật mà theo học với
chúng nó thì không thể nào thành tựu . Đến cuối cùng dù cho anh học rất
giỏi cũng trở thành Ma vương, Ma dâm, Ma nữ, thì thật là quá đáng tiếc .
Chúng nó tự xưng là chúng đã thành Phật rồi, cũng đã thành Bồ-Tát rồi,
hoặc tự bảo chúng ta là Phật Bồ-Tát tái thế . Trong giáo pháp của chúng
không cấm ý-chí dâm dục . Chúng không cấm, thậm chí còn tán thán, thì
phiền phức càng phiền phức hơn.

Xin xem tiếp đoạn kinh dưới và xin nhắc lại trong sách này những chữ đậm đứng là lời Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm:

Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều bọn ma này sôi nổi
trong thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người Thiện
-Tri-Thức . Phật nói rất minh bạch, nói rằng: sau khi Đức Thích Ca Mâu
Ni diệt độ, pháp vận của Phật là một vạn hai ngàn năm, chia ra ba thời .
Thời kỳ thứ nhất gọi là Chánh pháp, là sau khi Phật diệt độ một ngàn
năm. Lúc này Phật pháp vô cùng thuần tịnh không có biến chất. Một ngàn
năm thứ hai, Phật pháp dần dần biến chất, không còn thuần nữa, gọi là
Tượng pháp, tượng là tượng tợ, vẫn còn giống vẻ ấy, tương tợ nhưng không
hoàn toàn giống . Đến một ngàn năm thứ ba và về sau, là Mạt pháp; Phật
pháp càng truyền càng biến chất với một mức độ lớn . Mạt pháp có một vạn
năm. Sau một vạn năm Phật pháp ở trên thế gian này hoàn toàn tiêu mất
hết, không còn nữa gọi là Diệt pháp, cần phải một vị Phật khác ra đời;
Ngài giảng Kinh thuyết pháp thì thế gian này mới có Phật pháp . Vị Phật
sau đó là Di-Lặc Bồ -Tát .

Trong Kinh Di-Lặc Hạ sanh, Đức Thích
Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta rất rõ: lấy năm tháng của thế gian mà
tính, phải 56 ức mấy mươi vạn năm Di-Lặc Bồ-Tát mới đến thế gian chúng
ta thành Phật . Do đây có thể biết, thế gian này thời gian có Phật rất
ngắn; thời gian không có Phật rất dài . Hiện nay là mở đầu của một ngàn
năm thứ ba. Nói một cách khác, Mạt pháp vẫn còn chín ngàn năm. Mạt pháp
là chỉ đời này của chúng ta, lại là có nhiều bọn ma dâm này sôi nổi
trong thế gian gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm Thiện-Tri-Thức .

Trong ba bốn mươi năm về trước còn có ít thấy . Nhưng trong hiện nay, trong
nước cũng như hải ngoại, thường thường nghe thấy . Thậm chí vẫn có người
đặc-biệt đề xướng song tu. Đó là như Kinh này nói đến, họ có phải là
bực Thiện -Tri-Thức hay không ? Tự vỗ-ngực là Thiện-Tri-Thức, Phật không
thừa nhận . Phật ở chỗ này dạy chúng ta. Bọn đó khiến chúng sanh rơi
vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường Bồ-Đề . Trên đây tức là bị nó hại . Kẻ
bị hại rất nhiều . Chúng tôi đã từng gặp người bị hại chẳng ít . Có một
số ít giác ngộ hồi đầu, thì là may mắn lắm . Vẫn còn một số chấp mê
không ngộ . Vậy thì khó nói lắm, hậu quả không thể lường nổi . Thật là
một sự kiện đáng sợ . Cho nên học Phật không thể không phân biệt cho rõ
ràng .

Lời Tịnh -Hải:

Đây là chính điểm mà chúng tôi
căn cứ vào Kinh Phật để chứng minh rõ ràng: "Chúng sanh thời Mạt pháp
này không thể tu thiền định vì tâm dâm chưa dứt, như Phật dạy không thể
lấy cát, đá mà nấu thành cơm .

Vậy thử hỏi có vị Phật tử nào dám tự cho rằng mình đã sạch tâm dâm không ? Như đã nói, Ta bà này là
cõi do Ma Vương cai quản . Ma Vương muốn tất cả chúng sanh đều phạm dâm
để rơi vào các ác đạo hầu làm quyến thuộc của Ma. Vì hiểu thấu điều này
nên chúng tôi mới nói sự thật, khuyến cáo mọi người nên dựa vào thần lực
của Phật, dựa vào đại nguyện của Đức Phật A-Di-Đà để - dù tâm dâm chưa
dứt như Hoà-Thượng Tịnh-Không nói "phúc đoạn", lấy đá đè cỏ - dùng sáu
chữ Nam Mô A-Di-Đà Phật vượt thoát khỏi thế lực Ma Vương mà đến cõi
Tịnh-Độ Cực Lạc .

Còn như chúng ta không nghe lời Phật dạy, tu
sai pháp môn, đến lúc lâm chung vẫn phải theo tình và tưởng mà thọ sanh.
Không ai có thể cứu chúng ta hết . Nếu bình thường chúng ta biết niệm
Phật theo lời dạy của Đức Phật Thích-Ca trong các Kinh Tịnh-Độ, thì
chính chúng ta tự cứu mình . Có người nói, bao nhiêu người đòi Phật đến
rước, thì bắt buộc Phật quá, mà Phật lấy thời giờ rảnh đâu ra để mà làm
việc ấy ? Nói câu này chứng tỏ vị ấy, hoặc không nghiên cứu Kinh A-Di-Đà
hoặc xuyên tạc Kinh A-Di-Đà .

Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Các lổ
chơn lông Phật A-Di-Đà tuôn ra ánh sánh như núi Tu-Di. Vòng ánh sáng nói
thân Phật ấy, lớn như trăm ức đại -thiên Thế giới . Giữa vòng ánh sánh
có trăm vạn ức na-do-tha Hoá Phật, nhiều như cát sông Hằng ...."

Đọc câu Kinh trên chúng ta thấy rõ, chúng ta đang sống ở đây chỉ là một
tiểu thiên thế giới . Còn vòng hào quang nơi thân Phật A-Di-Đà lớn như
trăm ức đại thiên Thế giới và giữa vòng ánh-sáng có trăm vạn ức
na-do-tha Hoá Phật nhiều như cát sông Hằng . Như vậy hào quang của Đức
Phật A-Di-Đà bao quanh khắp nơi, chiếu soi khắp nơi và Hóa thân Phật
A-Di-Đà theo ánh sáng của Ngài luân chuyển bay đến khắp nơi, nên khi
cúng ta niệm danh hiệu của Ngài, Ngài biết ngay (gọi là nhiếp thọ).
Người nào siêng năng niệm danh hiệu Ngài, lúc gần lâm chung không cần
cầu, Ngài cũng hiện đến báo trước ngày giờ . Vì Ngài lúc nào cũng gần
với chúng ta đâu cần phải cầu, phải đòi . Đây là lòng thương chúng sanh
của Phật . Nên Kinh mới nói:

"Các Đức Như-Lai hiện ra nơi đời,
mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên-dương diệu-pháp bí ảo sâu xa cho
những bực Thánh -Giả, hiền nhơn, mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn là nhằm
cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về tưởng".

Từ khi nghiên cứu các kinh Tịnh-Độ, chúng tôi hết sức quý trọng chư Tăng
Ni, đã vì chúng sah mà suốt đời hoằng dương pháp môn Niệm Phật . Và
thường tự hỏi những người chống đối niệm Phật là hạng người nào mà Phật
đã nói trong Kinh? Mục đích những vị ấy muốn hướng dẫn chúng sanh đi về
đâu ?

Nhơn đây, theo lời trình bày của Hoà-Thượng Tịnh-Không,
chúng tôi hiểu rõ, người tu Thiền mà chứng được Tứ Thiền Bát Định, có
khả năng nhập định nhiều ngày, từ một tuần đến đôi ba tháng, khi lâm
chung vẫn chưa ra khỏi Tam giới . Vì được Tứ Thiền, mới chỉ lên tới cõi
trời Sắc giới, thêm Bát định thì lên tới trời Vô sắc giới . Chưa ra khỏi
Tam giới, nghĩa là vẫn còn phải luân hồi sanh tử . Mà còn luân hồi sanh
tử, thì sau khi hưởng hết phước trời; nghiệp dư trong Tàng thức vẫn
còn, thì gặp duyên ác vẫn phải đọa ác đạo .

Việc thứ hai mà chúng tôi hiểu, gần một ngàn năm trở lại đây, tức vào thời mạt pháp, hầu
hết các Thiền sư khi gần chết đều quy hướng Pháp môn Tịnh Độ, nương vào
Phật hiệu để vãng sanh Cực Lạc . Vì chư vị ấy tuy tu thiền được định
rất cao như Trung-Hoa có các Tổ Tịnh -Độ, có Ngài Hám -Sơn, Quảng Khâm;
Việt Nam có Ngài Giác Lập, nhưng xét lại biết mình chưa ra khỏi Tam
giới, thì chỉ còn nhờ vào thần lực và nguyện lực của Phật A-Di-Đà mà xa
rời ba đường dữ, Vãng sanh Tây Phương Cực -Lạc .

Đặc biệt có Đại lào Hoà-Thượng Hư Vân, công phu tu tập của Ngài không ai sánh bằng .
Nơi chùa của Ngài, ai muốn tu Thiền thì qua khu dành cho người tu
Thiền; ai muốn tu Tịnh thì ở khu tu Tịnh, riêng rẻ hai nơi.

Năm 1960, Ngài Hư vân thọ 120 tuổi, Ngài viết thư cho đệ tử khắp nơi từ chối lễ chúc thọ có những câu:

"Việc sống chết ta chưa biết ra sao...Một làn gió nhẹ thổi đến, thân này tan
thành bụi . Chưa liễu ngộ được gì . Niệm niệm thẹn thùng vì hư danh...

Ngài rất thành thật với mình . Nhưng, ngài quyết tâm ở lại Ta bà để độ thoát
chúng sanh, cho nên dù Ngài dạy để tử tu xưng niệm danh hiệu A-Di-Đà để
cầu được vãng sanh, nhưng chính Ngài lại mong về cung Đâu Suất của Đại
Bồ-Tát Di-Lặc .

Một ngày trước khi tịch, Ngài bảo thị -giả đem tượng Phật để lên quan tài ngài, ở phòng bên cạnh . Phương trượng cùng
ba vị tăng tri sự vào thăm, ngài bảo cho người lên đại điện niệm Phật .
Trưa hôm sau, Ngài tự xuống giường và quỳ xuống đất lạy Phật . Đây là
lần lạy Phật cuối cùng trong đời Ngài . Rồi Ngài ngồi kiết già mà niệm
Phật . Hơn một giờ sau chư thị-giả vào xem thấy Ngài nằm thế kiết già mà
thị tịch . Trong lễ trà tỳ, mùi hương lạ bay khắp núi . Hoả táng xong,
tìm thấy hơn một trăm hạt xá -lợi và thấy một lằn khói trắng bay thẳng
lên trời . Rõ ràng ngài đã sanh về cõi trời . Sau này Pháp sư Khoan Tịnh
gặp Ngài ở cung trời Đâu Suất .

Đây là một Thiền sư mà trong đời chúng tôi kính phục .
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:05 am

CHƯƠNG BỐN: TẠI SAO TRONG QUÁ KHỨ ĐÃ TU, MÀ ĐẾN NAY VẪN CHƯA VÃNG SANH ?
Trở lại bài giảng của Pháp sư Tịnh-Không:

"Đại định là sự thành-tựu của thanh-tịnh tâm. Tâm không thanh tịnh làm sao
thành tựu đại -định được ? Ông đem cái "Tâm Dâm", mà cầu diệu quả của
Phật, đây là sai rồi . Phải dùng thanh tịnh tâm mới cầu được diệu quả
của Phật . Kinh Vô Lượng Thọ, trên đề-Kinh Phật chỉ rõ chúng ta,
cương-lĩnh của sự tu hành là "Thanh Tịnh Bình-Đẳng Giác". Đây là nói về
những người chân tu (cả xuất gia lẫn tại gia), những người hy vọng trong
đời này được thành tựu . Nói một cách khác, mỗi vị đồng tu có mặt tại
đây đều là những người có thiện căn thâm hậu, cũng như Phật trong Kinh
Vô Lượng Thọ có chỗ nói, từ vô lượng kiếp đến nay quý vị đã từng cúng
dường Vô Lượng chư Phật Như-Lai. Nếu như không có thiện căn thâm-hậu như
vậy thì hôm nay không thể nào, quý vị gặp đệ nhất pháp môn này, cho dù
có gặp quý vị cũng không sanh được tâm hoan-hỷ, cũng không thể tín
nguyện thọ trì . Do đây có thể biết, nghe được pháp môn này sanh tâm
hoan-hỷ muốn học, tức là thiện căn trong vô lượng kiếp đã thành thục .
Vậy là từ trong đời quá khứ quý vị đã tu học lâu dài, tại sao lại không
thành tựu ?

Hôm nay học đoạn Kinh văn này chúng ta mới hóat nhiên đại ngộ . Cái niệm dâm dục của chúng ta vẫn chưa đoạn, bị nó làm
chướng ngại cho nên không thành tựu được . Trong một đời này đem sự thật
này giải-quyết rõ ràng, chúng ta nhất định phải đem chướng ngại này trừ
bỏ . Tôi không có chướng ngại này, trong một đời nhứt định thành tựu,
quyết định được sanh Tịnh-Độ Cực-Lạc . Một khi vừa sanh về Tịnh Độ, xin
thưa với quý vị là trong một đời này viên thành Phật đạo . Không chỉ là
nguyện vọng của chúng ta, mà cũng là hy vọng của Thập phương nhất thiết
chư Phật đối với chúng ta. Chúng ta nếu thật sự làm được, là không cô
phụ ơn đức của chư Phật Như-Lai; không cô phụ sự dạy dỗ của chư Phật
Như-Lai. Cho nên nhứt định phải thể hội sâu xa cái nỗi khổ tâm mà chư
Phật đã dạy dỗ chúng ta. Nhất định phải y giáo phụng hành .

Nếu như tu sai trên cái nhân, phía dưới nói: "Dù được diệu ngộ chỉ là gốc
dâm". Có được diệu ngộ không ? Chắc chắn là có . Diệu ngộ này từ đâu đến
? Một cái là họ tu định . Như kinh này đã nói, họ không phải không có
định . Họ thật sự có định, nhưng là thiền định của thế gian. Trí tuệ của
họ so với những người thông thường cao hơn. Chúng ta, những người thông
thường không bằng họ . Nguyên nhân thứ hai là nhiều đời nhiều kiếp, họ
huân tu về nghe pháp . Trong quá khứ, đời đời kiếp kiếp huân tu Phật
pháp những cái này thành ra diệu ngộ . Tiếc thay cái gốc của phiền não
(tức là tâm dâm) chưa dứt hết, họ học Phật cuối cùng thành Ma. Cái then
chốt thành ra ở chỗ này . Cho nên Phật nói: "Cội gốc đã thành Dâm, thì
phải trôi lăn trong Tam đồ . Chắc không thể ra khỏi ! Con đường nào tu
chứng Như Lai Niết Bàn?"

Chỗ này ám chỉ những vị xuất gia mà vẫn liên-hệ đến dâm-dục .

Cội gốc đã thành dâm, thì đã đem Phật pháp vào chỗ sai. Dẫn vào chỗ sai có hai thứ:

- Một thứ là cố ý dẫn sai.

- Một thứ là vô-ý dẫn sai.

Bất luận là cố ý hay vô ý đều phải chịu lấy trách nhiệm nhân quả, tự mình
uổng phí hết một đời. Điều này không thể trách người khác. Đây là mình
làm mình chịu. Dẫn sai đường cho đại chúng tội lỗi này thật là ghê gớm
lắm .

Chúng sanh có duyên gặp được Chánh-pháp, đời này rõ ràng
họ có thể thành tựu (tức tu Tịnh-Độ), anh lôi họ trở lại để tu theo pháp
môn của anh (tu Thiền Định), rốt cuộc vẫn đoạ lạc vào Tam ác đạo. Tội
lỗi này nặng lắm. Cho nên một người mù dẫn đám người mù, lôi kéo nhau
rơi xuống hầm lửa . Hầm lửa là tỷ-dụ cho địa-ngục .

(Hẳn chư Liên hữu còn nhớ bài viết của chúng tôi nơi trang 318 của sách Lưu
Xá-Lợi (toàn bộ) có đoạn "Tại sao hướng dẫn sai cách tu hành làm hại vô
số chúng sanh trong vô số kiếp ?" cùng chung ý này và ở dưới đây sẽ nói
rõ hơn).

Pháp sư Tịnh-Không tiếp: "Địa-ngục dễ đoạ lạc, nhưng rất khó ra khỏi".

Trong Kinh Lăng Nghiêm này, Phật vì chúng ta nói rõ chân tướng Thế gian pháp,
vì chúng ta giảng bảy thứ, mà đoạn địa -ngục này đặc biệt nói rất nhiều
.

Thật ra dụng ý của Phật là đề ra cho chúng ta một sự cảnh
cáo cao độ . Hy vọng chúng ta l ưu ý cẩn thận . Nhất định không tạo tội
nghiệp địa ngục . Những thứ này là tội nghiệp địa ngục .

Ngài Tịnh-Không trở lại câu kinh: "...Cội gốc đã thành Dâm, phải trôi lăn
trong Tam đồ, thì con đường nào tu chứng Niết-Bàn Như-Lai?"

Như-Lai Niết -Bàn nói một cách đơn giản tức là chứng thành Phật quả . Vậy con
đường nào để tu chứng ? Cội gốc đã thành "Dâm" nhứt định không thể thành
Chánh quả . Đây là lời dạy bảo thanh-tịnh rõ ràng, đệ nhất của chư Phật
Như-Lai. Chúng ta sao có thể không tin! ? Sao có thể không nhớ mãi,
không quên! ? Ý giáo phụng hành !

Phía dưới, càng khai thị càng nhiều quan trọng. Kinh văn tiếp theo:

"Chắc phải khiến cho thân tâm đoạn hết giống Dâm, cho đến tánh đoạn cũng
không còn nữa, thì mới trông mong chứng quả Bồ-Đề của Phật".

Câu nói này, quý vị đồng tu nhứt định phải niệm thêm nhiều lần, ghi nhớ mãi
trong lòng . Đây là Phật đối với những người muốn viên mãn thành Phật
trong một kiếp này .

Đề ra lời yêu cầu của Ngài, không những là
dâm cơ, tức là hạt giống dâm, chữ cơ là động cơ, rất là ý niệm . Không
những thân phải đoạn, tâm cũng chẳng có, thân tâm đều đoạn, nếu quả thật
đã đạt đến cảnh giới này, chúng ta niệm Phật: sự nhất tâm sẽ chứng được
. Nếu như đạt được cảnh giới như dưới đây, tánh đoạn cũng không còn, đó
là chứng được lý nhất tâm bất loạn . Lý nhứt tâm bất loạn, khi vãng
sanh Cực Lạc là "Thật Báu Trang-Nghiêm Độ", là "Thượng Thượng Phẩm Vãng
Sanh!".

Chúng ta cho dù không thể làm nỗi "Tánh đoạn cũng không còn", nhưng nhứt định sẽ làm được: "Thân tâm đều đoạn".

Việc này nói thì dễ, làm thì rất khó khăn .

Nguyên nhân tại đâu ?

Nguyên
nhân là tập khí trong kiếp vô thỉ . Tập khí phiền não . Người học Phật
như chúng ta biết đó là không tốt, rất muốn đoạn trừ nó . Nhưng vẫn cứ
không thể đoạn, vẫn còn có ý niệm này hiện tiền . Đây là tập khí phiền
não trong kiếp vô thỉ đang cản trở . Chẳng phải khả năng chính mình có
thể khống chế nỗi .

Nhưng nếu nó di hại sâu như vậy, thì phải làm sao ?

Tịnh -Độ Tông dạy chúng ta niệm câu Phật hiệu:

- Thứ nhứt không tạp nhạp, không gián đoạn .

-
Phật hiệu có sức mạnh, có thể đè lên nó đem Phật hiệu đè nó xuống .
Huống hồ trong đại Kinh thường nói: "Ta niệm Di Đà . Di Đà niệm ta. Ta
nghĩ Di Đà, Di Đà nghĩ ta, tự nhiên được bổn nguyện, oai thần của Đức
A-Di-Đà gia trì, khiến cho phiền não từ trong kiếp vô thỉ của chúng ta
tự nhiên không sanh ra".

Đây đều là cái cảm ứng tất nhiên do chơn tâm, chọn niệm mà có được .

Cảm ứng lớn nhỏ, cảm ứng rõ ràng hay không là ở nơi tín nguyện chắc vững, khẩn thiết của mình .

Nhứt tâm muốn rời khỏi Thế giới Ta bà, nhứt tâm cầu nguyện vãng sanh Cực
Lạc, thì sức mạnh cảm ứng sẽ rõ ràng . Phù hợp được tiêu-chuẩn này cùng
với Phật, Bồ -Tát chúng ta đã có hy vọng, thì mới trông mong chứng quả .

Áp
dụng vào Tịnh Độ Tông thì nhất định vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới . Phẩm vị cao thấp là do công phu tu trì của anh cạn hay sâu.

Cái gọi là công phu cạn sâu thực tại mà nói là trình -độ thanh tịnh của tâm
anh. Tâm càng thanh tịnh thì công phu càng sâu, phẩm vị càng cao. Sự
thật là như vậy .

Hoà -Thượng Tịnh -Không đọc tiếp Kinh văn:

"Như lời ta nói đây, gọi là lời nói của Phật . Không như lời nói đó, là lời nói của ma Ba Tuần.

Ba Tuần là tên của Ma Vương.

Nếu như chúng ta thân cận một Thiện -Tri -Thức . Vị Thiện -Tri-Thức này dạy
chúng ta, cùng lời Phật nói trong Kinh Lăng Nghiêm giống nhau. Đây là
lời Phật dạy . Đây là Thiện -Tri-Thức của Phật môn. Chúng ta có thể gần
gũi họ . Nếu lời hó nói cùng lời Phật khác nhau, thí dụ: "Không đoạn dâm
dục cũng có thể thành đạo vô thượng, thì đây là khác nhau. Không đoạn
dâm dục cũng có thể tu hành . Đây nhất định là mà nói, chẳng phải Phật
nói".

Cho nên phần cuối Phật dạy chúng ta phân biệt; thế nào là
Phật ? Thế nào là ma? Từ chỗ này rõ ràng phân biệt đem đặc trưng của ma
vì chúng ta mà nói rõ .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Trên đây là hết phần giảng của Pháp sư Tịnh-Không nói về giói thứ nhất là
"dâm" trong 4 giới "Dâm" - Sát - Đạo - Vọng" mà Đức Phật dạy trong Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm. Đức Phật dạy người tu thiền định mà không đoạn dứt 4
giới cấm trnê đây không thể nào tu chứng Thành đạo, đạt được quả Niết
-Bàn Như-Lai. Từ xưa đến nay, ít ai giảng giải tận cùng như Pháp-sư
Tịnh-Không.

Ở đây chúng tôi xin nói về khía cạnh khác .

Hai câu hỏi cần được giải-đáp .

1. Tại sao chỉ có một chữ "dâm" mà Đức Phật cho rằng nếu người tu không "đoạn dứt" thì không thể chứng được Niết-Bàn Như-Lai ?

2. Tại sao chúng tôi quả quyết nói chúng sanh, tức là Phật tử, không nên tu thiền định ?

Vần -đề tiên quyết, tức vấn đề quyết định đầu tiên được đặt ra là chúng ta có tin lời Phật dạy trong Kinh hay không ?

Tại sao vậy ?

Vì từ lâu nay, chư Tôn Đức Tăng Ni giảng rất nhiều về lời răn dạy của Phật
. Phật tử nghe chăm chú thích thú, công nhận thầy nói rất đúng (tức là
đúng theo lời Phật dạy trong Kinh). Như Hoà-Thượng Tịnh-Không nói ở
trước đây, nhiều người nghĩ rằng Phật nói đúng và đúng cho các đệ-tử
Phật hồi thời kỳ ấy, chứ Phật đâu có nói với mình và tự cho mình được
miễn giảm khỏi phải thi hành . Đa số không hiểu, khi mình đã quy y Phật,
quy y Tam Bảo thì lời Phật dạy mình phải tuân theo. Lời Phật nói là nói
chung cho người xuất gia và tại gia. Có những điều Đức Phật nói, nếu
làm trái lại là mang tội phỉ báng Phật pháp, mang tội đoạ địa-ngục .

Chúng tôi thấy gần đây, có nhiều người cố ý giảng sai Kinh Phật nói, phủ nhận
Kinh Phật nói . Những vị ấy không nghĩ đến sự tai hại cho bản thân mình
và cho người nghe theo mình. Vì Thầy và trò cùng mang tội chê bai Kinh
Phật nói, dèm chê pháp Phật dạy, thay vì giảng cho đại chúng nghe lời
dạy của Phật, thì lại giảng cho đại chúng nghe điều chấp mê của chính
mình .

Thay vì giảng pháp để cứu chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử mà lại làm cho người nghe rơi vào đường dữ .

Đức Phật nói rất nhiều về địa ngục, Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm Đức Phật đã giành
gần một phần ba nói về địa ngục và 3 đường ác . Nhiều người không thích
đọc, Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm vì đọc rồi sợ quá .

Nhưng không đọc cho hiểu, không có nghĩa là chuyện ấy không liên-hệ đến mình . Cuộc sống
của chúng ta ở cõi đời này chỉ có vài chục năm đến hơn 100 năm. Nhưng
cuộc đời địa-ngục, Ngả-quỷ, Súc-sanh lâu dài cả triệu lần hơn, tại sao
chúng ta không lo sợ ?

Cuộc đời làm súc-sanh dài hàng trăm ngàn
muôn ức kiếp, mà mỗi kiếp hơn 16 triệu năm, thật là đau đớn khủng khiếp
tại sao chúng ta chẳng sợ chẳng lo ?

Hết kiếp súc-sanh có khi
còn phải mang kiếp Ngạ-quỷ, rồi Địa-ngục. Có khi, sau Địa-ngục thật lâu
xa trăm nghìn muôn ức kiếp, lại sang Ngạ-quỷ rồi Súc-sanh, nơi nẻo ác
nào cũng trăm ngàn muôn ức kiếp .

Xin tất cả hãy nghĩ lại, chúng tôi chẳng có lợi lộc gì khi viết những sự thật này . Chẳng những
chúng tôi không được đón nhận một cách vui vẽ, mà còn có thể bị ngộ nhận
. Nhưng chúng tôi vì tất cả mà chấp nhận tất cả, miễn sao có người nào
hiểu và tránh thoát được đường ác là đủ rồi .

Nhưng làm sao chúng sanh hiểu được mình bị, hoặc thoát được địa -ngục ? Đây là điều
khó giải thích, nhưng trong Kinh Phật nói rõ trường hợp đoạ địa-ngục của
Đề Bà Đạt Đa, của Tỳ kheo Thiện-Tinh, khi vừa lâm chung là rơi xuống
địa-ngục liền . Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nơi phần Hạ Phẩm Trung Sanh
có nói như sau:

Hoặc có chúng sanh huỷ phạm năm giới, huỷ phạm
tám giới và Cụ túc giới, người ngu như thế ăn trộm những vật thuộc của
Thường-trụ, ăn cắp những vật hiện tiền tăng, bất tịnh nói pháp không
biết hổ thẹn, dùng các nghiệp xấu để tự tô điểm. Tội nhận như vậy, bởi
nghiệp ác nên đáng đoạ địa-ngục .

Đọc đoạn kinh này chúng ta hiểu rõ, kẻ làm ác hoặc huỷ phạm Chánh-pháp, bất tịnh nói pháp, khi dứt
hơi thở lửa địa ngục hiện đến ngay, người đó liền đoạ vào địa-ngục .

Có những người nhất thời, vì không hiểu biết hoặc biết mà khinh thường lời
Phật dạy bị đoạ vào đường dữ; có người vì quá tin vào Ác-Tri-Thức tưởng
là Thiện-Tri-Thức mà phải đoạ thật đáng tội.

Tại sao tu theo Phật mà có tội ?

Vì Kinh Phật nói rất rõ ràng, như Hoà -Thượng Tịnh -Không giảng dạy trước đây . Chúng tôi xin tóm ngắn đại ý dưới đây:

"Tu Phật tức là tu vượt khỏi Tam giới, tâm phải thật sự hoàn toàn thanh
tịnh, nên chương Kinh được gọi là THANH-TỊNH MINH-HỐI Chương, có nghĩa
là Thanh-Tịnh rõ ràng . Có nghĩa là người muốn tu chứng liễu-nghĩa, đạt
đến Niết Bàn cõi Phật phải giữ 4 giới quyết -định . Giới thứ nhất là
Dâm, kế đó là Sát, Đao, Vọng . Chỉ một giới Dâm đã là khó khăn rồi .
Phật tử tại gia vợ con đùm đề, làm sao tu thiền định ?

Kinh nói rõ:

"Ông tu phép Tam-Muội cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng dâm, thì
không thể ra khỏi trần-lao được . Dầu có nhiều trí-thiền định hiện-tiền,
nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma đạo".

và một đoạn dưới:

Ông đem thân dâm để cầu diệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là
gốc dâm, cội gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc
không ra khỏi, con đường nào tu chứng Niết-Bàn Như-Lai ?

Đây là chỗ Phật dạy phải tránh, coi chừng, tu thiền định mà chẳng lìa gốc
dâm...phải trôi lăn trong Tam đồ, trở thành quyến thuộc của Ma Vương.

Trong nhà Phật, để đoạn dứt những cái dâm vi tế, nhiều vị sư không dám nhìn
thẳng vào mặt, hay nói chuyện cười cợt với nữ Phật tử . Người nữ đưa vật
gì, sư nam không dám trực tiếp đưa tay lấy. Đó là vì, vị sư ấy còn sợ
cái "dâm vi tế".

Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:09 am

CHƯƠNG NĂM: MUỐN VÃNG SANH CỰC LẠC CẦN PHẢI XOÁ BỎ NHỮNG MỐI OÁN THÂN TRÁI CHỦ
Hãy nghe Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp về giới thứ hai, sau giới dâm:

"A-Nan, lại các chúng sanh lục đạo trong các thế giới, nếu cái tâm không Sát, thì không theo dòng sanh tử tiếp tục".

Chúng ta phải đem câu nói này của Phật xem cho rõ ràng, không phải một thế
giới chúng ta, mà mười phương chư Phật thế giới đều chẳng ngoại lệ .
Thật vậy, được khỏi sanh tử luân hồi không là đơn giản . Dâm, Sát, Đạo,
Vọng, bốn điều này đều phải thanh tịnh . Ba điều thanh tịnh mà còn một
điều không thanh tịnh đều vẫn không ra được khỏi Tam Giới, đều trở thành
chướng ngại .

Thì ra, tới nay tôi mới hiểu rõ, tại sao chúng
ta tu hành từ kiếp vô thỉ mà vẫn còn như thế này . Bốn điều, dứt được ba
còn lại một, vẫn chẳng được thành công. Sức mạnh của nó có nặng nhẹ sai
biệt, mặc dù là nhẹ nhưng vọng ngữ, vẫn có thể tạo thành nhân tố quyết
định, không thể thành tựu .

Đây là nói về Sát Sanh không thể ra khỏi Tam giới . Còn cái nguyên-nhân, chúng ta nên suy nghĩ nhiều một tí .

Nghiên cứu tỉ mỉ cái đạo lý mà Phật dạy cho chúng ta, những sự thật đó, phía
trước cái thứ nhất là tâm Dâm, là căn nguyên tội nghiệt của bản thân
chúng ta. Quý vị nên biết, thế gian rất nhiều tội nghiệt đều từ đây sanh
ra.

Người thế gian thường nói "nghiệp chướng sâu nặng". Đây là
căn nguyên của nghiệp chướng . Cái thứ hai là Sát Sanh. Sát Sanh là căn
nguyên của "oan gia trái chủ".

Chúng ta tu hành bị rất nhiều người làm chướng ngại, nhiều việc làm phiền não trở ngại . Đây là lực lượng từ bên ngoài .

Tại sao có nhiều người làm chướng ngại ?

Đó là oán thân trái chủ .

Oán thân trái chủ làm sao mà kết thành ?

Giết mạng người!

Ăn thịt sinh vật!

Từ chỗ này kết-thành oán hận rất sâu. Phàm phu chúng ta sơ suất đi, Phật nhìn thấy rất là rõ ràng, rất là minh bạch.

Vậy thì trong xã -hội hiện tại, chúng ta vẫn thường hay nghe thấy, vẫn còn
gặp phải việc oan hồn ma quỷ nhập vào thân. Tôi ở Hong Kong gặp được . Ở
Đài -Bắc cũng gặp được . Ở Mỹ cũng gặp được .

Hỏi tại sao tìm anh, mà không tìm kẻ khác ? Vì họ có oán thù với anh, đến báo thù .

Trong hội Phật Thất ở Hong Kong, Pháp sư Đàm Hư giảng cho chúng tôi. Băng
cassette của Ngài hiện nay chúng tôi vẫn còn giữ . Trong đó có nói đến
một người tu Thiền, người này là để tử của Đế Nhàn Lão Pháp Sư. Đàm Hư
Đại sư cũng là pháp tử của Đế Nhàn Lão Pháp Sư, là đệ tử truyền -pháp .
Nói một cách khác, đó là Sư huynh của Đàm -Hư Đại sư. Người này công phu
tham thiền rất giỏi . Lúc bấy giờ Đế -Nhàn Lão Pháp Sư học về giáo .
Ngài là Tổ sư Tông Thiên-Thai cuối đời nhà Thanh.

Đệ tử của Đế-Nhàn Pháp Sư nay muốn học Thiền, nên Ngài đem ông gởi vào đạo tràng
Thiền-Tông. Lúc ấy, đệ nhứt đạo tràng Thiền-Tông là chùa Giang Thiên ở
Trấn Giang. Đưa ông ta vào chỗ này, tức là Chùa Kim Sơn trong chuyện
Bạch Xà, cũng gọi là chùa Giang-Thiên. Ngồi chùa này ở trên hòn đảo trên
sông Trường -Giang, bốn bề toàn là nước, là một đạo tràng hưng thịnh
nhất của Thiền Tông Trung Quốc vào năm đầu Dân Quốc .

Tâm danh lợi nổi lên

Thần Hộ Pháp đi mất !

Ông ta tu thiền tham học ở đây hết mười mấy năm. Công phu rất là đắc lực,
được lão Hoà-Thượng coi trọng và tán-dương, đưa ông ta lên chức vụ Thủ
toạ Hoà-Thượng, địa vị chỉ dưới Hoà-Thượng Phương Trượng thôi.

Được làm chức Thủ toạ Hoà-Thượng thì tâm phiền não của ông hiện ra. Nói cách
khác, định lực không đủ, bởi vì đồ đệ đến quy y đông, cúng dường cũng
nhiều, tâm danh lợi của ông nổi dậy; thái độ hách dịch càng lớn . Điều
này thật là phiền phức đấy . Thần hộ pháp đi mất . Quý vị nên biết, khi
công phu đắc-lực có Thần hộ pháp bảo vệ . Bất luận là xuất gia hay tại
gia, chỉ cần như pháp tu hành chân chánh đều có Thần hộ pháp bảo vệ .
Nhưng khi tâm bất tại đạo, thì thần hộ pháp đi mất . Thần Hộ-pháp vừa
trông thấy anh đổi tánh, thì than: "Người đã thay lòng rồi. Thối chuyển
rồi ! thì họ đi mất !"

Thần Hộ-pháp vừa đi thì oan-gia chủ nợ tìm đến . Ông ta liền bị ma nhập vào .

Ma nhập cách nào ? Xem khi không có người, ông ta bèn nhảy xuống sông tự
tử . Lần đầu có người bắt gặp, cứu sống ông ta đem lên. Qua mấy ngày sau
ông ta lại nhảy sông. May vừa gặp người, lại cứu sống đem lên. Phương
Trượng lão Hoà-Thượng hoảng kinh, một vị Thủ toạ Hoà-Thượng thường làm
việc nhảy sông tự tử khiến cho toàn thể đạo tràng bị ảnh-hưởng rất lớn,
đông người ai nấy đều hoang-mang. Người tu định đều sanh ra trở ngại .
Họ thông báo cho Đế Nhàn lão Pháp sư biết . Sư phụ ông ta lật đật mang
ông ta về . Lão Hoà-Thượng ở núi Thiên Thai, Phong Châu tỉnh Triết-Giang
nên Ngài đến Trấn Giang đem đệ tử về . Trên đường bình an vô sự, chẳng
có triệu chứng chi cả . Nhờ uy-đức của Lão Hoà-Thượng hộ trì ông ta,
khiến con quỷ oan đó không dám nhập vào . Suốt đường bình an.

Khi về đến núi Thiên Thai, vì ông ta đã từng làm Thủ toạ Hoà-Thượng trong
Phật môn rất có địa vị, cho nên trong chùa dành cho ông một căn liêu
phòng. Lúc đó ông rất được đãi-ngộ. Công phu buổi sáng ông có đến hay
không cũng không sao. Đạo tràng đối với ông ta đều ưu đãi .

Qua được vài ngày, có một buổi sáng nọ, lúc ăn sáng chẳng thấy ông ta đến.
Lào Hoà-Thượng nói ông ta ngủ lười không ra thể thống gì cả, bèn cho
người đến trai phòng xem thử . Gõ cửa thì không có người bên trong.
Không có tiếng động, bèn đẩy cửa vào, trong phòng không có người . Phía
sau phòng có một cửa sổ đã mở . Nghĩ rằng có thể ông ta từ cửa sổ này
nhảy ra. Họ trở về thưa lại với lão Hoà-Thượng .

Nghe xong Lão Hoà -Thượng liền la lên: "Không xong rồi! E lại xảy ra chuyện!" Vì bên
cạnh núi Thiên Thai có một con sông nhỏ . Tuy không lớn bằng sông
Trường-Giang, nhưng cũng có thể ngập chết người . Ngài dặn người tức tốc
theo bờ sông mà tìm .

Ngài bảo: "Chắc đã xảy ra chuyện!"

Đi hơn nữa dặm đường thì tìm được . Ông ta đã chết, thi thể nổi lên. Rốt cuộc cũng là nhảy sông tự tử .

Ngay trong lúc đó mới biết ông ta có một đứa con gái . Trước khi xuất gia,
ông ta có kết hôn, có một đứa con gái. Khi ông học Phật, nhất thiết đòi
xuất gia. Vợ ông không đồng ý, ông vẫn cứ xuất gia, nên vợ ông nhảy sông
tự sát. Cho nên con quỷ ấy là vợ ông ta. Nguyên lúc đầu ông tu hành có
công phu, có Thần Hộ Pháp bảo hộ, oan hồn không cách chi nhập vào. Đến
khi tâm danh lợi của ông nổi dậy, đạo tâm tiêu mất, Thần Hộ Pháp cũng
chạy mất . Vợ ông ta tìm cách đến được, cho nên ông ta hai lần nhảy
sông, đó chẳng phải là ý của ông ta. Đó là ông ta bị quỷ nhập vào .

Đứa con gái lúc đó còn nhỏ, cha thì xuất gia, mẹ thì nhảy sông tự tử, nhờ
người bà con nuôi dưỡng đến lớn và lấy chồng . Lúc ông chết, đứa con gái
đến chùa khóc lóc, Đế-Nhàn Pháp sư thấy cô vừa đến liền bảo:

- "Hay lắm! Cha cô đã xảy ra chuyện!".

Cô ta khóc lóc nói:

- "Đêm qua con nằm mộng thấy cha con nói hôm nay đi nhận sở làm".

Lão Hoà-Thượng nói:

- "À! thì ra đi làm Thổ Địa!

Đế-Nhàn Pháp sư bổng nhiên đại ngộ: "Thì ra, cách nhà họ không xa vừa lập ra
ngôi miếu Thổ Địa . Bên trong vừa đúc xong hai tượng Thổ Địa để an vị .
Thì ra là hai người này".

Lão Hoà-Thượng nói:

- "Học Phật cả một đời, tham thiền mấy mươi năm, đến cuối cùng lại đoạ lạc làm Thổ-Địa".

Thổ-Địa công la quỷ thần trong quỷ đạo, là Lý-Trưởng trong quỷ-đạo .

Cho nên tôi thường hay đánh thức quý vị: "Khi tâm danh lợi nổi dậy thì hỏng cả, thì đoạ lạc vô cùng đáng sợ".

Rơi vào trong Thần đạo, Quỷ thần đạo, việc này cũng tức là ông ta gián -tiếp sát sanh. Vẫn không ra khỏi điều này .

Hoà-Thượng Tịnh-Không tiếp:

Kinh nói, "Ông tu phép Tam-muội quyết ra khỏi trần lao. Nếu không trừ lòng
Sát, không ra khỏi trần lao." (Trần lao tức tam giới).

Phía trước, thứ nhất là tâm Dâm, thứ hai đây là tâm Sát . Nhứt định phải đoạn dứt sạch . Kinh tiếp:

"Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền . Nếu không đoạn lòng Sát, thì chắc
phải lạc vào Thần-đạo . Người Thượng Phẩm thì thành Đại-lực-quỷ.
Đại-lực-quỷ tức là Quỷ Vương.

Người Trung-phẩm thì thành Phi-hành Dạ-Xoa, qua các loại Quỷ-Soái".

Ở Đài -Loan cũng có rất nhiều, nào là Nguyên Soái, Vương-gia công ở trong các ngôi miếu Quỷ Thần đều thuộc về Trung-Phẩm .

"Người Hạ Phẩm đều biến thành Địa-hành, La-Sát . Những loại quỷ này có khi giúp người, cũng có khi hại người ."

Khổng-phu Tử dạy một câu nói không sai: "Kính Quỷ thần mà xa lánh chúng". Tâm Sát không trừ, tất đoạ vào Quỷ thần đạo .

Phật giảng Kinh này là vào 3000 năm về trước . Hậu thế chúng ta ấn chứng, quả nhiên không sai.

Vừa rồi chúng ta nói về độ đệ của Đế-Nhàn Pháp sư. Ông ta không phải cố ý,
tạo thành sát nhân làm cho ông ta phải sự sát. Đây là một việc rất xấu .

VÌ YÊU NƯỚC MÀ SÁT SANH VẪN PHẢI RƠI VÀO ÁC-ĐẠO!

Ngoài ra còn có một thí dụ rất rõ rệt . Câu chuyện này xảy ra lúc
tôi mới học Phật, 40 năm trước, Lão Cư-sĩ Tô-Kính-Trụ kể cho tôi nghe.
Lúc bấy giờ Lão Cư-sĩ 70 tuổi là người đề-xướng in Kinh sớm nhứt. Ông kể
cho tôi nghe một câu chuyện có thật .

Ông nói lúc ông còn trẻ,
vào năm Tuyên Thống, tức là trước Dân Quốc một năm. Lúc đó ông đang ở
quê tại lục địa, là người Thôn Châu, nhà ở miền quê.

Ông học rất giỏi, ở thôn lân cận có một cử -nhân trúng cử vào đời nhà Thanh.
Hoàn cảnh gia đình này rất khá . Là con một nên sau khi trúng cử -nhân,
ông ta không làm quan, ở nhà để phụng dưỡng cha mẹ . Lấy vợ có được một
đứa con. Một hôm ông đang ngủ trưa, nằm mộng. giấc mộng rất rõ ràng. Ông
thấy một người đến gõ cửa, ông bèn ngồi dậy ra mở cửa . Gặp kẻ lạ, hắn
là tên lính sai, ăn mặc như là quân-nhân. Hắn đưa một bức thư và hỏi ở
đây có tên người này hay không ?

Ông ta nhìn thấy trên bì thơ là tên của mình. Ông đáp :

- "Không sai, đây là tên tôi!"

Người ấy mới nói:

- "Đại-tướng quân chúng tôi xin mời ông đi một chuyến."

Ông ta nghĩ: Tuy mình đã đỗ cử-nhân, nhưng không có qua lại với quan Phủ, còn quan võ càng không quen biết nữa . Ông hỏi:

- "Có phải ông đã ghi lộn tên rồi chăng ? Có lẽ trung tên, trùng họ chăng ?"

Kẻ kia không cân chi cả nói:

"Nếu đúng như vậy thì mời ông lên ngựa ".

Kẻ kia dẫn ngựa đến và đẩy ông lên ngựa. Ông không còn cách chi, liền cỡi
lên lưng ngựa. Trên lưng ngựa ông có cảm giác là con ngựa bay lên không.
Chẳng bao lâu thì ông đến một địa phương.

Nơi đây đang có rất đông người đang dụm lại . Hình như đang bàn luận việc gì quan trọng .
Ông bắt đầu nghe ngóng, để xem vị tướng quân là ai ? Người ta cho ông
biết là Nhạc Phi. Ông nghĩ lại giựt mình nói: "Không xong rồi, Nhạc Phi
là người đời Tống, vậy ta đã chết rồi sao? Sao ta lại đến chỗ này ?".
Rồi ông tự nói: "Tôi không thể chết được . Tôi trên còn có cha mẹ già,
vợ và con nhỏ!".

Qua một lúc sau thì Nhạc Phi thăng đường, tiếp
kiến ông ta. Dĩ nhiên ông ta là kẻ có học, đối với lịch sử rất quen
thuộc . Đối với Nhạc Phi tận trung báo quốc, ông cũng bội phục, vô cùng
kính phục .

Nhạc Phi liền nói với ông ta:

- "Họ đang chuẩn bị Bắc phạt, đầu phạt lính Kim, mời ông giúp việc văn phòng". Hình như là công-tác của bí-thư.

Ông ta nghĩ: "Không xong! Cha mẹ già, vợ và con nhỏ không thể rời bỏ!"

Nhạc Phi nói:

-
"Chúng tôi còn ba tháng nữa sẽ xuất binh. Tôi có thể để ông trở về lo
thu xếp gia đình đàng hoàng . Ba tháng sau tôi phái người đến mời ông".

Ông ta bị bức bách không còn cách chi từ chối, nên đồng ý. Nhạc Phi bèn phái người đưa ông ta về.

Khi tỉnh giấc, ông ta mới thấy mình đã nằm chiêm bao. Bèn thuật lại cha mẹ
ông nghe. Ông bảo đây như là cơn mộng, đâu phải thực . Nhưng ông cảm
thấy giấc mộng này cùng với bình thường, giấc mơ thì không rò như vậy .
Giấc mơ này như là thật, rất rõ ràng, không như giấc mơ bình thường .
Cho nên ông ta tin tưởng ba tháng sau Nhạc Phi sẽ cho tiểu yêu đến rước
ông ta. Vì vậy, trong ba tháng này ông đã lo gia sự đàng hoàng . Đến
ngày hẹn hôm đó, ông thông báo rất đông bà con và bạn bè cùng đến.

Lão cư-sĩ Tô-kính -Trụ cũng tham gia. Lúc ấy lão cư sĩ hãy còn rất trẻ,
cũng muốn biết một người đang sống không đau bịnh, xem ông ta chết cách
nào . Lão cư sĩ dốc lòng tò mò muốn biết .

Ngày hôm đó ông ta
mời tiệc bà con, cũng có vài bàn. Ăn cơm xong thấy thì giờ sắp đến. Ông
tắm rửa ăn mặc đàng hoàng. Trong phòng ông cửa sổ đều như mở hết. Bà con
bạn bè đều vào ở trong phòng ông ta. Ông ta nằm trên giường. Chẳng bao
lâu ông nói với cha ông rằng:

- "Nhạc Phi đã phái người đến trước cửa. Con đã trông thấy!"

Trong nhà không ai thấy chỉ có ông ta thấy. Cha ông rất không vui, chửi nói:

- "Ta chỉ có một đứa con dưỡng lão, đều có thể nhờ nó . Sao có thể bảo nó đi được ?"

Đến sau cùng, ông ta nói với cha rằng:

- "Người chỉ có 1 lần chết . Chết được theo hầu Nhạc Phi cũng kể như là một việc rất quang vinh. Thôi thì để cho con đi".

Cha ông ta bèn nói:

- "Thôi được! Tốt lắm!"

Cha ông vừa bằng lòng, ông bèn tắt thở .

Cuộc cách -mạng ở Võ -Xương thành công. Nên Tô cư sĩ nói: "Trên nhân gian
chúng ta lật đổ quân Mãn Thanh. Ở dưới quỷ đạo trước nửa năm đã bắt đầu
khởi chiến . Nói đến chỗ này, Nhạc Phi niệm niệm tận trung báo quốc,
niệm niệm đều không quên đi giết lính Kim".

Hoà-Thượng Tịnh-Không kết luận:

"Cái
ý niệm về Sát sanh chưa tận dứt, nên rơi vào quỷ đạo . Thân phân trong
Quỷ đạo của ông là hạng Trung Phẩm . Ông ta là tướng quân trong Quỷ đạo,
là thân phận địa vị một Nguyên Soái . Điều này chứng minh Phật nói
trong Kinh một tí cũng chẳng sai".

Trong hạng người chúng ta, Nhạc Phi là một anh hùng dân tộc, công nghiệp muôn đời tồn tại vĩnh
viễn. Người hậu thế ai cũng tôn kính, nhưng tại vì sao Nhạc Phi không
thể lên trời? Vì sao không thể chuyển thế làm người, mà lại rơi vào Quỷ
đạo ? Qua Kinh Phật mới hóat nhiên đại ngộ . Vì ông ấy tâm Sát chưa
đoạn, nên ngay cả ba đường Thiện cũng sanh ra chướng ngại . Huống chi tu
hành là phải vượt khỏi luân hồi, phải viên chứng Phật quả . Điều này dĩ
nhiên càng không thể được . Ngay cả ba đường thiện - Người và Trời -
đều bị nó chướng ngại . Do đây có thể biết, tâm Sát hại không trừ thật
là đáng sợ .

Vậy thì cái đoạn giáo huấn này của Phật, chúng ta phải ghi nhớ, phải thật lòng mà phụng hành .

Kinh nói tiếp:

"Các loại quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo Vô-thượng ."

Những ngôi miếu quỷ thần tại Trung Quốc chúng ta từ Đại lục cho đến Đài Loan,
hầu như mỗi một thôn nào đều có cả . Hiện giờ thì ít, trước kia mỗi một
huyện đều có miếu Thành Hoàng, mỗi một thôn làng thì có miếu Thổ-Địa .
Ngoại thành mỗi khu đều có miếu Sơn Thần . Ngoài những thứ này ra thế
tục thường gọi là Phước, Đức, Chánh thần; còn có Vương gia Công, không
thể kể cho hết được .

Đây thuộc về Quỷ Thần. Ngoài Quỷ thần ra
còn có Thiên Thần. Ở Trung Quốc còn có loại được người ta cúng tế là
Thuỷ Thần tức là Long Vương.

Trong Kinh Phật, loại này chúng ta đã đọc qua rất nhiều. Những loại này đích thật vẫn còn tồn tại. Chúng
cũng có oai đức, cũng được nhơn gian cúng tế . Những người có học trên
thế gian lấy Khổng-Phu-Tử làm đại biểu, kính nhi viễn chi. Chử "kính" là
vào một thời tiết nhứt định cúng tế cho chúng . Cúng tế là "kính", còn
"viễn" là gì ? Là không thể nghe lời dạy của chúng . Nói cách khác không
thể theo học chúng, vẫn chỉ nghe Thánh Hiền để học . Không theo học với
Quỷ thần . Viễn không có nghĩa là chẳng qua lại với chúng, thì sai. Như
là cúng tế vào ngày mùng 1 và rằm, lễ Trung Thu đây là "kính", phải làm
đến Kính. Đệ tử Phật, anh xem như An Sỹ Toàn Thư, thái-độ của cư-sĩ
Châu-An-Sĩ là gương tốt cho người học Phật đối với Quỷ Thần. Khi vào
miếu Quỷ Thần, chúng ta cũng thắp nhanh, cũng xá . Đệ tử Tam Bảo không
lạy Quỷ Thần , vì chúng không đảm đang nổi. Anh lạy chúng, chúng sẽ
tránh nhường không dám nhận cái lạy của anh. Chỉ xá là được.

Châu-An-Sĩ chẳng những xá, mà còn nói Pháp cho Quỷ thần nghe, khuyên chúng Quy y
Tam Bảo . Khuyên chúng đoạn trừ tâm Sát . Quỷ Thần tâm Sát sân hận rất
nặng, nghiệp rất nặng . Anh làm phật ý chúng, chúng sẽ gây rắc rối cho
anh. Chỉ khuyên chúng ăn chay, đừng nhận đồ cúng mặn . Khuyên chúng nên
Niệm Phật cầu sanh Cực Lạc . Đây là thái độ tốt nhứt của đệ tử Phật đối
với Quỷ thần .

Hoà-Thượng Tịnh-Không đọc tiếp Kinh:

"Các loại quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo
vô-thượng (và đây là đoạn chót, nói rõ thời kỳ mạt pháp này). Tu hành mà
không đoạn cái ý niệm sát sanh, ý niệm này sẽ gây chướng ngại trên
đường Bồ-Đề; nói một cách khác, chứng quả thì họ sẽ không có phần, tu
học đến cuối cùng sẽ đoạ lạc vào Quỷ thần đạo. Quỷ thần đạo sát nghiệp
rất nặng".

Đoạn văn dài phía trước, Phật dạy chúng ta phân biệt
Phật và Ma. Còn đoạn này Phật dạy chúng ta phân biệt, cái gì là Phật,
cái gì là Quỷ, Ma và Quỷ khác nhau. Phàm là người học Phật, nếu đề xướng
học Phật có thể không cần ăn chay. Đề xướng ăn thịt có thể tu thành
Chánh quả . Đây là lời của Quỷ nói . Chúng ta được một kết luận trong
phần Kinh Văn này .

Nói tóm lại một câu, sát sanh là đại ác. Chúng sanh mà anh giết hại, nổi oán hận trong tâm của họ vĩnh viễn không
bao giờ tiêu mất . Chỉ cần oán hận của họ còn tồn tại, khi nhơn duyên
thành thục thì họ báo thù. Việc này rất là rắc rối. Cho nên Phật dạy
chúng ta, dặn dò bốn chúng đệ tử, tuyệt đối đừng bao giờ não hại chúng
sanh. Anh làm cho chúng sanh sanh phiền não đều không nên làm; huống chi
là hại họ, giết họ. Cho nên phải cùng chúng sanh kết thiện duyên. Tuyệt
đối không kết ác duyên. Thì trên đường Bồ-Đề chướng ngại sẽ giảm thiểu.

Dĩ nhiên mỗi một người chúng ta không chỉ sống ở một đời này . Chúng ta
vẫn còn đời quá khứ . Nếu trong đời quá khứ không học Phật, lại tạo rất
nhiều tội lỗi, kết không biết bao nhiêu là oán thù, thì đời đời kiếp
kiếp oan gia trái chủ vô lượng vô biên đếm không hết được. Đây là một sự
thật .

Những oan gia trái củ tuyệt đối không muốn anh vượt khỏi luân hồi .

Vì sao ? Vì anh ra khỏi luân hồi thì, chúng muốn đòi nợ, làm sao đòi được ?
Anh muốn vượt khỏi luân hồi (ra khỏi Tam giới). Chúng đều tìm hết cách
để cản trở anh, lôi kéo anh trở lại .

Vì vậy, trong Kinh Lăng Nghiêm ở đoạn chót, vì chúng ta Phật nói rõ 50 thứ ấm ma.

Chữ ma này là oán thân trái chủ trong vô lượng kiếp đến đấy. Nếu chúng
không oan hệ với chúng ta; chúng nó tuyệt đối sẽ không cản trở chúng ta.
Phàm chúng đến gây rắc rối là vì trong quá khứ chúng ta đã làm mất lòng
chúng, từng làm khó chúng. Cho nên chúng ta đã kết cái oán ấy quá sâu,
quá sâu!

Cho nên trên con đường tu hành chúng ta gặp chướng ngại trùng trùng, không cách chi tránh khỏi .

Lời của Tịnh-Hải:

Chắc chư Liên hữu nhớ lại câu chuyện của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết trong chuyện
Lưu-Xá-Lợi. Trong sách ấy chúng tôi không kể chuyện người anh ruột của
bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết . Ông này lúc gần chết, cứ thấy có nhiều oan hồn nắm
chân ông kéo xuống một hố thẳm . Ông gào la liên tiếp nhiều ngày . Bà
Tuyết dạy ông niệm Phật, ông không niệm được . Cuối cùng, lúc Hoà-Thượng
Tịnh-Không đi vắng, Bà Tuyết rước một Ni Sư người Trung-Hoa đến khai
thị, dạy ông niệm mười niệm Nam-Mô-A-Di-Đà Phật nối tiếp liền nhau, ông
ta mới ra đi yên lành .

Pháp sư Tịnh-Không tiếp:

Quý vị nên nhớ chẳng phải ma chỉ có 50 con. Thế thì đơn giản quá . Đó là 50 đại loại, trong mỗi loại chẳng biết là bao nhiêu .

Ý nghĩa chính của Kinh Lăng Nghiêm là dạy chúng ta nhất định trong đời
này là phải thành tựu . Vì thế Phật dạy chúng ta đối với yêu ma quỷ phái
phải có khả năng nhận biết chúng . Anh nhận biết nó, thì không bị nó
hại .

Phải có khả năng phân biệt . Kinh Lăng Nghiêm quả là một
trí tuệ cao độ . Cổ -đức có nói: "Khai trí tuệ là Kinh Lăng Nghiêm". Quả
thật không sai.

Ngoài ra, vẫn còn một phương-pháp vô cùng
quan-trọng; đó là pháp môn tu hồi-hướng . Hồi-hướng, thật tại mà nói là
thông với Sám-hối . Nhưng phải dùng chơn tâm để hồi hướng . Không thể
thủ khấu vô tâm, sẽ không có hiệu quả . Phải bằng cái tâm chí thành để
hồi hướng .

Tôi niệm Phật, tụng Kinh, tu trì, hành thiện tất cả
các thứ công đức, tôi đều hồi hướng cho lịch kiếp oán thân trái chủ, hy
vọng họ đều được hoá mê khai ngộ, niệm Phật đồng sanh Tịnh Độ .

Phải bằng một tấm lòng chơn thành hồi hướng, hy vọng đem cái nút của quá khứ mở ra; oan gia nên giải không nên kết .

Phải nói với họ: "Trước kia vô tri tôi kết cái oán đó, nay biết rõ, hy vọng
chúng ta dùng giải -pháp hoà bình để đem cái oán kết này giải trì".

Cho nên đây là cách tu tập pháp môn hồi hướng, dụng ý rất sâu. Nếu họ nhận
chịu thì họ sẽ không đến quấy rầy ta nữa . Tương lai chúng ta tu hành
chứng quả thì lộn trở lại lục đạo, chu toàn giúp đỡ họ . Họ nghe được
cũng rất vui mừng, tương lai chúng ta sẽ giúp đỡ họ, vẫn cùng họ có
duyên.

Nếu tiến sâu một từng nữa mà nói, những oán thân trái
chủ này, nếu chúng ta không thể thành tựu, không thể vượt khỏi lục đạo
luân hồi là vĩnh viễn liên luỵ dây dưa không liễu kết được .

Chúng ta sống trong thế gian này là rất là khổ!

Chúng ta cũng biết, chúng ta không chỉ là một đời này cũng còn có đời sau.
Đời sau vẫn còn đời sau nữa . Vấn-đề này không thể giải quyết thì, tình
trạng sanh hoạt của chúng ta: "Một đời chẳng bằng một đời, một thế hệ
chẳng bằng một thế hệ". Quý vị suy nghĩ kỹ có đúng không ?

Kiếp này chúng ta được thân người, trong một đời này . Từ nhỏ đến lớn, từ
đầu năm đến cuối năm, chúng ta tạo nghiệp lành nhiều hay nghiệp ác nhiều
? Khởi tâm động niệm là niệm lành nhiều hay niệm ác nhiều ? Nếu như
niệm ác nhiều hơn niệm thiện; hạnh ác nhiều hơn hạnh lành, thì tháng này
của kiếp sau sẽ khổ hơn kiếp này .Cho nên thật tại mà nói, một đời
không bằng một đời .

Điều này phải giác ngộ .

Oán thân trái chủ của một đời so với một đời càng tăng gia; nó không thể giảm thiểu, nó chỉ tăng gia. Nó càng ngày càng nhiều .

Biết rõ chơn tướng sự thật thì yên-định một niệm rằng: "Một đời ta đây quyết định phải vượt khỏi luân hồi!"

Phương-pháp vượt khỏi luân hồi trong Kinh Tiểu Thừa, Đại-Thừa nói rất nhiều. Tuy
nói rằng Pháp môn bình-đẳng, Pháp môn thật sự bình đẳng; nhưng căn tánh
chúng sanh của chúng ta không bình đẳng . Có thể khiến cho chúng sanh
không đồng căn tánh, một đời đều được thành tựu viên-mãn, chỉ có Niệm
Phật Đới Nghiệp Vãng Sanh Cực Lạc Tịnh-Độ . Chỉ có một pháp môn này .

Hôm qua tôi đã từng nói qua với quý vị, những người niệm Phật sẽ có bổn
nguyện và oai thần của Phật gia trì . Dù cho có những loại yêu ma quỷ
quái, oán thân trái chủ đến gây rắc rối cho anh, oai đức của Phật sẻ bảo
vệ cho chúng ta. Chúng không dám cản trở não hại . Đây là Phật lực gia
trì .

Nhất tâm niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh Cực Lạc không chỉ là
bổn nguyện của A-Di-Đà Phật gia trì, mà còn thật sự tất cả Thập phương
chư Phật Như-Lai hộ niệm; tất cả Hộ pháp Thiên Thần ủng-hộ . Anh thử
nghĩ sức mạnh này lớn biết là bao! Cái thế lực này sẽ bảo đảm chúng ta
trong một đời này được về Cực Lạc một cách bình an.

Ngoài trừ pháp môn này ra, tất cả đều khó chớ không dễ . Đời chúng ta đây may mắn
gặp Pháp Môn Niệm Phật này . Lý và sự đều phải hiểu rõ triệt để, không
kết oán thù với chúng sanh. Nhứt định không sát sanh. Nhứt định không ăn
thịt .Tôi học Phật đã 40 năm rồi .Tôi, hồi 26 tuổi mới học Phật, năm
nay 67 tuổi (bài này Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng vào 1993, bây giờ là
đầu 2002, cách đây 8 năm). Học Phật từ đầu đến cuối đã 42 năm. Tôi mới
vừa học Phật 6 tháng thì đã ăn trường chay, không có ai khuyến khích
tôi.

Tôi tụng hết một bộ Kinh Địa Tạng thì hoảng sợ, cảm thấy
đã kết oán với chúng sanh quá sâu. Trong thời kỳ đi học, tôi rất thích
đi săn bắn . Tôi đi săn ba năm, giết hại rất nhiều chúng sanh. Sau này
xem đến Kinh Địa Tạng, quả báo đều là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh, tôi
sợ đến toát cả mồ hôi lạnh . Từ đó về sau tôi không sát sanh nữa, ăn
trường chay, đề xướng phóng sanh để chuộc tội .

Tôi nhờ đọc bộ Kinh Lăng Nghiêm này được khai thị . Ăn chay hai ba năm đầu, người thì
xanh mét, rất gầy, mọi người bảo anh học Phật, anh đã mê rồi . Anh dinh
dưỡng không đủ, thân thể không xông rồi . Mỗi nữa năm tôi đều đến bịnh
viện kiểm tra một lần . Không có bịnh nên tôi rất an tâm. Dần dần tôi
khoẻ lại . Cho nên nhứt định phải kiên trì .

Biết được kết oán thù với chúng sanh vô cùng đáng sợ . Hiện nay tôi có được một chứng
minh: ăn chay là lối ẩm thực lành mạnh nhứt .

Khi thân thể tôi chuyển biến trở lại, đại khái là vào khoảng 40 tuổi . Lúc đó thầy Lý ở
thư viện Đài-Trung, tổ-chức buổi giảng từ quan tại trường Đại học . Tôi ở
đó đã tuyên giảng một buổi . Học sinh đại học đến từ các địa phương
toàn tỉnh. Nhóm học sinh này xem tôi, tuổi tác ngang với chúng nó . Thật
ra, tuổi tác của tôi ngang với tuổi cha chúng . Tôi vào lúc 40 tuổi,
trông thật giống như 20 tuổi . Năm nay tôi sắp 70 tuổi, người ta nhìn
đại khái 50 tuổi .

Nguyên nhân là ăn chay. Quý vị muốn không
già, muốn trẻ trung tôi chỉ cho quý vị ăn trường chay. Những người ăn
trường chay trẻ trung không sanh bịnh .

Đoạn kinh văn phía dưới, Phật nói thật cảnh sanh hoạt hồi lúc đó ở Bắc Ấn-Độ như sau: "Xứ
Bà -la-môn các ông, đất đai phần nhiều nóng ướt, lại thêm cát đá, rau-cỏ
không sanh được; tôi dùng sức đại -bi gia bị, nhân sức đại -từ bi gọi
là thịt và các ông cũng nhận được cái vị như thịt".

Bây giờ chúng ta mới hiểu rõ, thì ra là thần lực của Phật gia trì . Họ ăn thịt đó không có cùng chúng sanh kết ác duyên.

Chúng ta hãy đọc qua phần Kinh Văn:

"Làm sao, sau khi Như-Lai diệt-độ, người ăn thịt chúng sanh gọi là Thích Tử ?
Các ông nên biết, những người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai, giống
như Tam-ma-đề, đều là loại đại La-sát, quả báo hết rồi, phải chìm trong
bể khổ, không phải đệ tử Phật".

Đây là nói, loại nghiệp này là
tánh tội . Sát - Đạo - Dâm - Vọng đều là tánh tội . Anh đã thọ giới lại
phạm giới, là có tội . Anh không thọ giới cũng có tội . Không thể nói,
tôi không thọ giới, phạm Sát - Đạo - Dâm ...là không có tội . Không có
đạo lý này . Đay là tánh tội, bản thân tức là tội ác nên lãnh lấy quả
báo này . Đó là oan oan tương báo . Đọc tiếp Kinh Văn:

"Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao lại được ra khỏi ba cõi ?

Đúng là như Phật thường nói trong Kinh: Người chết thành dê, dê chết thành
người, anh ăn thịt nó nữa cân; tương lai phải trả cho nó tám lượng,
không chiếm được phần hơn một tí nào cả .

Vậy làm sao có thể ra khỏi Tam giới ?

Câu này là nói oan gia trái chủ đến gây rắc rối cho anh. Nó không thể dễ dàng bỏ qua cho anh, để cho anh vượt khỏi Tam giới! ?

Cho nên khi anh dụng công niệm Phật rất là đắc lực, có Thần Hộ Pháp bảo vệ
anh, chúng không dám khiêu khích anh. Nếu như anh sanh ra một tà niệm,
Thần Hộ-Pháp chạy mất, oan gia trái chủ của anh lập tức sẽ tìm đến anh.

KHI CAO TĂNG THẮT NIỆM THẦN HỘ-PHÁP CHẠY MẤT!

Tại tỉnh này, có một đạo tràng hình như từng bái qua Thuỷ Sám .
Anh thử xem, nhân duyên của Thuỷ Sám, Ngộ-Đạt Quốc-sư từng làm cao tăng
mười đời . Vì ông ta là cao tăng 10 đời, có Thần hộ-pháp bảo vệ hồn oan
của quỷ không thể nhập vào . Đến đời nhà Đường, đời thứ mười của ông ta -
Quốc-sư là thầy của Vua, một hôm nhà Vua cúng dường ông ta một chiếc
ghế quý bằng trầm hương, là chiếc ghế quý Thái sư do Vua tặng cho ông ta
làm bằng gỗ trầm hương rất quý giá, trầm hương bảo toạ . Ông ta vừa mới
sanh tâm vui mừng, ta hôm nay là Thầy của Vua thật phi thường, cái niệm
cống cao ngả mạn vừa nổi dậy, thì Thần Hộ-Pháp biến mất, oan gia trái
chủ liền đến gõ cửa hiến một mụt ghẻ mặt người, thiếu chút nữa là tán
mạng .

Điều này chứng tỏ oan gia trái chủ đã theo ông ta mấy
trăm năm, thời thời khắc khắc đều ở bên cạnh chờ cơ hội . Khi Thần
hộ-pháp vừa đi thì nó nhập vào .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Như chúng tôi đã trình bày, cõi Ta bà này do Ma Vương khống trị . Những oan
hồn chết trong ba đường dữ đều là quyến thuộc của ma. Cho nên Phật
thương chúng ta, thường dạy phải ráng vượt ra khỏi Tam giới, khỏi vòng
kềm toả của Ma Vương. Nhưng đâu phải là chuyện dễ, nếu trong nhiều đời
quá khứ và hiện tại ta giữ được không có niệm Dâm. Nếu còn có tâm Sát,
thì luôn luôn bị oan gia kề cận, cho lúc ta suy yếu, vận xấu, chúng liền
đến đòi mạng . Ma Vương lúc nào cũng muốn tăng cường thêm ma quân dưới
trướng, nên khi có người vừa chết là quân ma ập đến đông đầy, hoặc đòi
mạng, hoặc rủ rê người chết theo chúng .

Trong bài giảng của Hoà -Thượng Tịnh -Không cho thấy, Nhạc Phi là một người nghĩa khí, trung
quân ái quốc . Nhưng dù ái quốc, tâm Sát quá nặng, việc giết người quá
nhiều, nên sau khi chết vẫn phải theo luật nhân quả, nên mấy trăm năm
sau vẫn còn ở trong Thần đạo . Ông Quan Công cũng vậy, nhiều người Việt
Nam bị ảnh hưởng của người Trung-Hoa nên đông đảo người thờ ông, nhưng
ông Quan Công cũng giống như Nhạc Phi. Người ta thờ cái gương trung liệt
của ông. Phật nói: "Luật nhân quả dung thông ba đời".

Nhơn đây, thấy cũng cần nói rõ thêm, những Phật tử cựu quân-nhân, tu theo đạo
Phật nói chung, nên áp dụng Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc,
nương vào nguyện lực, thần lực và oai thần của Phật A-Di-Đà để bảo đảm
sự an-toàn khi lâm chung, nếu trong đời cầm súng đã bắn hạ rất nhiều
sanh mạng, mà lúc đó họ được coi là kẻ thù, anh được gọi là anh-hùng,
được khen thưởng . Nhạc Phi đã giết vô số lính Kim nên không lên được
cõi Trời, không được trở lại làm người .

Lúc vận nhà Thanh sắp mãn, Nhạc Phi biết trước và tâm sát sanh, trả thù, lại bừng lên.

Anh em cựu quân-nhân đều là người yêu nước . Nhưng luật nhân quả vẫn là
luật nhân quả: "giết người phải đền mạng". [b] Oan hồn bị giết oán hận
không cam chịu nên đeo đuổi đòi mạng, có khi cả hàng trăm năm sau. Xem
chuyện của Quốc sư Ngô-Đạt ở trước thì rõ .

Chỉ có pháp môn Niệm Phật và Hồi-Hướng mới giúp cho quân-nhân Phật tử được an toàn thoát
khỏi luân hồi, ra khỏi Tam giới để tránh oan gia của bao nhiêu đời kiếp
sau, mà Vãng sanh cõi Cực-Lạc .
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:14 am

CHƯƠNG SÁU: NGƯỜI ĐƯỢC VÃNG SANH CỰC-LẠC CÓ NÊN HIẾN BỘ-PHẬN CƠ THỂ ?
Hòa-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp tới đoạn Đức Phật dặn Ngài A-Nan:

"Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, thứ nữa, phải đoạn lòng Sát. Ấy gọi
là lời dạy rõ ràng thanh-tịnh, quyết định thứ hai, của các Đức Như-Lai
Tiên-Phật Thế-Tôn.

Tu học Tam-ma-địa là chơn chánh tu hành .
Hành là hành vi. Tu là tu chính - Tư tưởng hành vi của chúng ta có sai
trái, phải đem nó tu chỉnh trở lại . Tam-ma-địa, Thiền na là tiêu-chuẩn
hành vi của chư Phật Bồ -Tát, anh y theo đây mà tu chính, tức là chính
mình cũng như một vị Phật . Đây là Phật dạy Ngài A-Nan phải chỉ dạy
những người tu hành trên thế gian, phải dạy họ đoạn hết sát sanh. Kinh
dạy tiếp:

"Vậy nên A-Nan, nếu người ấy không đoạn lòng Sát, thì
cũng ví như bảo người bịt tai lại, rồi cả tiếng kêu to, mà trông mong
người khác không nghe."

Bọn này gọi là muốn dấu mà càng lộ . Ở đây, Phật đưa ra một thí dụ:

Không đoạn dứt Sát sanh mà tu thiền định có thể thành tựu không ? Không thể
thành tựu . Ở chỗ này các bạn đồng tu nên biết rõ một sự thật . Chúng ta
không cần nói đến trong cửa Phật . Trong thế gian pháp, người xưa
thường nói: "Học vấn thâm thời ý khí bình", có nghĩa là "người càng có
học vấn thì càng hàm dưỡng", người càng có "đạo đức thì càng có thể bao
dung". Hoà -Thượng thí dụ: Khi ta ra đường gặp một vị xuất gia tu hành
được gọi là đạo đức cao, nhưng nếu vị ấy còn có tâm ngạo nghễ, keo kiệt,
khinh người thì đó là thứ giả không phải thiệt . Cho nên một vị Đại Đức
chơn chánh khi anh gần họ nhất định ôn-hoà từ bi, tuyệt đối không ngạo
nghễ kinh người . Đây là nói rõ, kẻ tu thiền định còn có tâm sân nhuế,
vừa hơi phật ý một tí là nổi giận, nếu làm phật ý họ, họ liền có niệm
trả thù; đây là thứ giả .

Đây là loại người gì ? Thì ra là quỷ La-sát . Cho nên trong thời kỳ mạt pháp, yêu ma quỷ quái rất nhiều .
La-sát cũng mặc áo cà sa, cũng đội lốt chiêu bài của Phật huỷ diệt Phật
pháp, gạt gẫm chúng sanh, chúng ta không thể không nhận biết . Ở đây,
Phật dạy chúng ta nguyên tắc phân biệt đó . Hàng Tỳ Kheo thanh-tịnh và
các vị Bồ-Tát đi trong đường rẽ không dám cỏ non, huống nữa là lấy tay
nhổ cỏ, thì tại sao lấy máu thịt chúng sanh mà làm đồ ăn ? Trong giới
Kinh dạy cho chúng ta, một vị xuất gia trì giới thanh-tịnh, Bồ Tát có
hạng tại gia, có hạng xuất gia, đi đường còn không đạp lên cỏ non, huống
là lấy tay để nhổ . Đối với thực vật còn thương tiếc cỡ đó, thì đối với
loại động vật càng thương tiếc hơn; làm sao có thể giết nó, ăn thịt nó ?

Kinh dạy:

"Nếu các Tỳ Kheo không mặc đồ tơ lụa, là-lượt phương Đông và không dùng giày
dép, áo cừu, áo len hay các thứ bơ sữa, phó mát, đề hồ, thì những Tỳ
Kheo như thế, đối với thế gian, đây thật là giải-thoát trả hết nợ cũ
xong, thì không vào ba cõi nữa".

Đây là nói đời sống hàng ngày,sự ăn mặc của chúng ta. Chúng ta không ăn thịt, không kết oán thù với
chúng sanh. Nếu như còn mặc da của chúng sanh, thì cùng với Sát Sanh
không khác chi cả . Giống như Sát Sanh. Thuở xưa Trung Quốc với các nước
có một con đường thông thương buôn bán . Người ta vận chuyển tơ tằm đi
buôn bán . Đây là người ta giết tằm để lấy tơ, còn tại Ấn Độ có giày làm
bằng da bò, quần áo làm bằng lông cừu . Những thứ này cũng đều là phải
sát sanh mới có được . Những lạc, đề hồ làm bằng sữa, tuy không Sát
Sanh, nhưng cũng giựt lấy đồ ăn của bò con, cũng không nên làm .

Cho nên trong các giới luật nghiêm khắc cấm chỉ, không những không ăn thịt,
cũng không được mặc đồ bằng da ....Phật bảo: "Tỳ Kheo này mới thật là
thanh-tịnh" thì mới thật là giải-thoát, thì không vào trong ba cõi nữa .

Trong Kinh này, từng câu từng câu Phật nói với chúng ta đều là lời nói thật . Kinh nói:

"Dùng những bộ-phận thân thể chúng sanh, thì đều bị ảnh-hưởng chúng sanh,
cũng như người ăn giống bách cốc trong đất, thì chân không rời khởi
đất".

Trong Kinh, Phật cho biết, Tổ Tiên chúng ta tữ cõi trời
Quang Âm đến . Nói một cách khác, chúng ta từ một tinh cầu khác di dân
đến đây. Hiện nay chúng ta là người Thái Không, Tổ Tiên chúng ta từ Thái
Không đến . Sau khi đến đây, ăn những thứ mọc trên đất, sau đó năng lực
mất hết, không trở về lại được . Nên đoạn trên Kinh nói: "Ăn giống bách
cốc trong đất, thì chân không rời khỏi đất!"

Phật nói, Tổ Tiên chúng ta từ đây mà có . Kinh dạy tiếp:

"Quyết phải khiến cho thân tâm, đối với thân thể hay bộ-phận thân thể của
chúng sanh, đều không ăn không mặc, thì những người như thế, tôi mới gọi
là chơn thật giải-thoát . Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật;
không như lời nói đó, tức là lời của ma Ba-tuần".

Hoà-Thượng
Tịnh-Không giảng xong về giới Sát . Ngài trình bày thêm ba vấn đề liên
hệ đến Sát Sanh, tức là có liên hệ đến việc vãng sanh Cực-Lạc .

1. Phá Thai Có Tội Không ?

Nhiều người đến hỏi Hoà-Thượng rằng phá thai có tội không ? Ngài đáp chẳng
những có tội mà còn có tội nặng nề, và giải thích: "Quan hệ giữa cha mẹ
có 4 thứ chuyện: 'báo ơn, báo oan, đòi nợ, trả nợ". Trong đời quá khứ
anh kết duyên với nó, đời này gặp lại nó . Nếu là ác duyên là nó đến đòi
nợ, nó đến để báo oán . Anh đem nó giết chết, mối oán hận của nó kết
càng sâu. Sau này khi gặp lại, mối oán thù mạnh không biết là bao lần .
Cho nên không nên phá thai. Nếu như nó đến báo ân trả nợ là việc tốt,
nhưng nếu anh giết hại, mối ân thành thù . Điểm này người không học
Phật, không hiểu rõ sự lý, không biết sự lợi hại . Người biết học Phật,
nhất định phải biết cái Sát Sanh này, so với giết hại các loài động vật,
thậm chí so với Sát Sanh một người, mối oán thù nầy kết lại càng sâu
hơn. Tương lai quả báo càng thảm khốc hơn.

Cho nên phá thai là một điều đáng sợ, muôn ngàn lần không thể làm được . Điều này các vị đồng tu nên biết .

Lời của Tịnh-Hải:

Như Hoà -Thượng Tịnh -Không nói, người không hiểu Phật pháp không rõ sự lý,
không biết rõ sự lợi hại . Dù rằng bào thai còn nhỏ, chưa tượng hình
người . Nhưng đứng về tâm linh thì, thần thức (hay linh hồn) khi nhập
vào thai đã có mạng căn rồi . Phá thai là giết một mạng người . Theo
sách Liễu Sanh Thoát Tử, Thần thức, tức Thân Trung-Ấm của người chết
được thác sanh làm người, cảm thấy hai thân nam nữ giao hợp, liền dấy tà
niệm . Khi cảm thọ sự dục lạc liền bị tối tăm mất cả tri-giác và thân
trung-ấm bị diệt . Nhưng thọ mạng chưa thành hình mà bị giết . Nỗi đau
đớn kịch liệt không kể xiết, oan hồn không tiêu tan cứ lẫn quẩn theo cha
hoặc mẹ, đợi lúc vận người ấy xấu, liền báo thù . Nếu có sự phát nguyện
vãng sanh, việc Vãng Sanh có thể không thành, vì sát nghiệp của việc
quyết định phá thai quá nặng .

2. Bịnh Người Già

Hiện nay trong xã hội có trường hợp thứ hai là bịnh người già, cũng gọi là
người thực vật . Trong Phật giáo gọi là bịnh nghiệp chướng . Có nhiều
người chủ-trương cái chết an lạc. Có người hỏi tôi, khi người này trí
giác không còn gì, chỉ có hơi thở chưa dứt . Không những chính mình rất
đau khổ còn làm liên luỵ cả nhà không bình an. Thì giờ càng kéo dài,
người nhà càng vô cùng buồn chán . Sự việc chẳng biết xử trí ra sao?
Trong tình trạng này bảo họ phải chết an lạc . Vậy có tội hay không ?

Tôi trả lời: theo đạo lý, Phật dạy trong Kinh, nhứt định có tội . Phải nên
biết, con người thực vật tuy tất cả tri-giác đều mất hết; nhưng hơi thở
chưa dứt . Là nguyên nhân gì ? Hoặc giả, tuy thọ mạng của họ không còn
nữa, nhưng phước báu của họ chưa hưởng hết . Đời của họ phước báu quá
lớn, chưa hưởng tận, thọ mạng đã hết, nhưng còn lại hơi thở để hưởng
phước . Đến khi hưởng hết thì họ sẽ đi, bởi thế không thể giết họ, giết
chết họ nhứt định có tội .

3. Có nên quyên góp bộ phận cơ thể ?

Có người hỏi tôi: Những người niệm Phật chúng ta có thể quyên góp bộ phận cơ thể (khí quan) không ?

Tôi trả lời: nếu quả đã vãng sanh, thì đây không thành vấn đề. Vãng sanh là
lúc còn sống mà vãng sanh. Điều này quí vị nên biết, chẳng phải chết
mới vãng sanh. Những người Vãng Sanh Tây Phương Cực-Lạc Thế giới khi hơi
thở họ chưa dứt. Đầu óc họ còn rất tỉnh táo. Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát
Quán-Thế-Âm Đại-Thế-Chí đến tiếp dẫn họ. HỌ hoan hỹ vui mừng theo Phật
mà đi. Theo Phật đi, rồi mới tắt thở. Cho nên vãng sanh toàn là sống mà
vãng sanh. Thần thức của họ đã đi đến Tây Phương Cực Lạc Thế giới, thân
thể còn lại đem quyên góp thì không có vấn-đề chi cả .

Nếu như họ chưa vãng sanh thì việc đó phiền phức lớn lắm .

Phật dạy: "Con người sau khi tắt thở, Thần thức của họ còn 8 tiếng đồng hồ
mới rời khỏi thể xác". Trong vòng 8 tiếng nếu anh đụng vào họ, họ cảm
thấy đau đớn . Vậy thì, dù khi sống họ đã phát nguyện hiến tặng khí
quan, lúc chết người ta đem thây đi mổ xẻ, lúc ấy họ không chịu được sự
đau đớn hối hận vậy làm sao đây ?

Lúc tâm sân hận này vừa động
thì lập tức lọt vào Tam ác đạo! Thế là một việc rắc rối . Người học Phật
chúng ta không thể không quan tâm lo sợ, không thể không hiểu rõ chơn
tướng của sự thật này .

Trên sự là một việc làm tốt . Nếu anh
có công phu tu hành chơn chánh có thể được . Còn nếu không có công phu
tu hành này, anh phải dự phòng kẻo lúc đó thì sẽ hối hận .

Điều này không thể hỏi người khác . Người khác không thể hiểu được . Phải
hỏi đương sự . Cho nên đời sau của họ, đi về đường nào có quan hệ mật
thiết, điều này xin quý vị thức tỉnh và lưu ý .

Lời của Tịnh-Hải:

Hoà -Thượng nói: "Nếu anh có công phu tu-hành chơn chánh có thể được". Thế nào gọi là "công phu tu-hành chơn chánh ?"

Người tu Thiền cao có thể đưa thần thức mình ra khỏi thể xác . Các vị đại
Lạt-ma Tây Tạng khi biết mình sắp hết thọ mạng, thường nhập thất, rồi
các Ngài xuất hồn tức thần thức ra khỏi xác, đi tìm một gia-đình có
phước đức, chọn để nhập thai.

Có khi thần thức đi xa qua một
nước khác để lựa chọn, vì phước đức của cha mẹ tương lai rất ảnh hưởng
đến đời sau của vị sư ấy . Chọn gia-đình xong, thần thức ghi nhận nhà ấy
đang ở hướng nào, có đặc điểm gì trước nhà; sau đó trở về nhập vô xác
trở lại .

Vị Sư bèn ghi xuống giấy, nói trước hướng tái sinh
của mình, rồi sau đó mới viên tịch . Về sau người ta theo hướng mà tìm
ra vị tái sanh.

Trường hợp một người có công phu tu hành như
vậy, trước khi chết hồn đã ra khỏi xác . Khi đem thây đi mổ xẻ, cưa,
thần thức không bị đau đớn, vì thần thức của vị Lạt ma kia đã nhập thai
mẹ rồi .

Trái với trường hợp này, người bình thường chết, thân
xác bị đem đi mổ xẻ, khiến cho thần thức trông thấy, nổi sân giận . Tâm
sân giận vừa nổi lên thì lập tức lọt vào Tam-ác-đạo . Như chúng tôi đã
nói, dù kiếp này một người không hề làm ác, nhưng nghiệp-ác từ muôn kiếp
trước vẫn chứa đầy trong Tàng thức của người ấy. Khi chết, gặp duyên
xấu, thí dụ một người chết bình thường, do lời hứa hiến tặng một bộ phận
cơ thể, người ta đem thây đi mổ xẻ, thần thức trong vòng 8 tiếng đồng
hồ chưa ra khỏi thân thể, chứng kiến người ta mổ xẻ xác mình, liền cảm
thấy bị đau đớn nổi tâm sân giận (đây là duyên xấu) thì các nghiệp ác từ
lâu (dù đời này không làm ác, thí dụ như vậy) nổi lên, khiến người ấy
phải lọt vào Tam-ác-đạo tức ba đường dữ . Đây là trường hợp trả lời cho
những ai nói đời này tôi không làm ác đâu cần gì tu. Về duyên xấu không
phải chỉ có thí dụ sau khi chết bị đem đi mổ xẻ như nói ở trên, mà còn
vô số duyên xấu khác; chư vị tìm hiểu sẽ thấy rõ ràng . Cho nên, người
không tu niệm Phật để nương nhờ thần lực của Phật mà đi vãng sanh, những
trường hợp gặp duyên xấu dễ đoạ vào Tam-ác-đạo.

Trở lại bài giảng của Hoà-Thượng Tịnh-Không. Tại sao Hoà-Thượng nói; "Anh có công phu tu hành chơn chánh có thể được ?".

Có công phu tu hành là đủ rồi, tại sao còn nói công phu tu hành chơn chánh
? Vì đời này có người dùng lối Thiền xuất hồn, cũng giống như các vị
Lạt-ma Tây Tạng . Nhưng có người xuất hồn không chơn chánh như, dùng
cách này để thoả mãn thú tánh, xem các cặp vợ chồng đang giao hoan.

Trường hợp xuất hồn này dễ làm cho điên loạn .

Thiết tưởng cũng cần nói thêm. Các vị Lạt ma có công phu tu như đã nói thường
đã đắc quả cao. Kinh sách có nói, dù là Bồ-Tát sau khi cách ấm (tức từ
thân trung ấm này qua thân khác) thường bị ngu mê quên hết quá khứ .
Phải là bực Đại Bồ -Tát đắc được Vô-sanh pháp nhẫn thì nhập vào thai mẹ
mới không bị ngu mê. Những vị Đại Lạt-Ma, như Ngài To Mo, mà chúng tôi
thường nhắc tên, khi tái sanh, vừa biết nói là nhớ lại hết quá khứ, mới 7
tuổi đã đậu bằng Tiến sĩ Phật học .

Sở dĩ Phật-giáo Tây Tạng
áp dụng được là vì họ có sự truyền thừa, học tập đúng pháp Phật . Còn tu
Thiền khác, dù là biết xuất hồn đều bị coi là Thiền ngoại đạo. Người tu
chẳng có lợi gì, vì lối Tu không được Đức Phật công nhận .

Quý vị Lạt-ma Tây Tạng muốn đem Phật pháp truyền sang các nước Âu Mỹ, trước
khi tịch đã chuyển thần thức của mình nhập thai vào một người mẹ, người
khác giống ở Mỹ và Tây-Ban-Nha.

Đó là trường hợp của Lạt-ma
tái sanh Sanggyal Dorje Rinpoche tại Victorville (California), và Lạt-ma
tái sanh Osel Rinpoche ở Tây-Ban-Nha.

Còn thêm hai trường hợp
Lạt-ma Tây Tạng tái sanh tại Mỹ . Nhưng phạm vi sách không phải nói về
các vụ tái sanh, mà muốn nói lên rằng người có công phu tu hành trước
khi chết thần thức đã Vãng sanh Cực-Lac; cho nên sau đó, dù thân xác bị
đem đi mổ xẻ cũng không nguy hại cho người chết, vị họ dã vãng sanh rồi .

(Về các chuyện Tái sanh của Lạt-ma Tây-Tạng, chư vị muốn rõ nên tìm xem
cuốn Sự Tái-Sanh của các Lạt-ma Tây Tạng của cô Phương-Dung).

Vấn đề làm nhiều người khổ !

Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp:

Trong nhà chúng ta, những loại như dán, kiến, ruồi, muỗi, giết chúng có bị oán thù hay không ?

Nếu anh không giết nó, nó làm nhiều loạn đời sống của anh. Huống hồ dán và
ruồi còn mang đến môi trường của bịnh truyền nhiễm . Những thứ này, thật
là chán ngấy . Nếu giết nó thì phạm giới sát sanh, tạo nghiệp không
giết nó thì sẽ không yên.

Anh vì học Phật không sát sanh, cả nhà đều chửi anh. Cả nhà đều phỉ báng Phật pháp .

Tôi tuy không sát sanh, nhưng khiến cả nhà mang tội phỉ báng Phật pháp, khiến họ tạo tôi nghiệp thì sao đành ?

Sự việc này thật là nỗi khổ tâm lớn. Cho nên người học Phật, sanh hoạt
phải có quy luật, hoàn cảnh gia đình nên ngăn nắp sạch sẽ . Ngăn nắp
sạch sẽ tự nhiên những thứ này sẽ giảm-thiểu, tìm biện pháp đuổi chúng
nó ra ngoài, đừng nên giết hại chúng .

Như muỗi chúng ta có thể thắp nhang xông muỗi. Nhưng nhớ mở hết cửa ra, cho chúng bay ra ngoài.
Nếu các cửa đóng hết thì lại giết hại chúng .

Còn loài kiến, tìm cách dụ nó ra ngoài . Dùng một ít bánh kẹo dụ chúng nó đi. Chỉ là
tốn thì giờ một ít mà thôi. Chúng ta có thể dùng nhiều phương-tiện mà
làm .

Ngoài ra, còn có một cách làm thù thắng nhứt nữa . Điều
này có thể làm cả nhà anh cảm động . Với một tấm lòng chơn thành, tấm
lòng đại từ bi, ta tụng Kinh niệm Phật hồi hướng cho chúng nó . Lại
truyền thọ quy y cho chúng nó . Sau đó ra lịnh cho chúng phải dọn nhà .
Điều này có thể làm được . Thật chứ không phải giả . Chúng sẽ dọn đi.

Chúng ta hãy xem truyện ký của Ấn Quang Đại Sư. Trước khi trong phòng Ngài ở
có nhiều rệp, muỗi . Thị giả của Ngài muốn đuổi chúng đi, Ngài lắc đầu .
Bảo đừng động đến chúng nó . Ngài nói với thị giả rằng: "Sự tu trì của
ta đức độ chưa đủ . Cứ tuỳ nơi chúng, nếu ta thật sự có đạo hạnh, chúng
nó sẽ tự nhiên di chuyển". Ấn Quang Đại Sư sau 70 tuổi, căn phòng Ngài
ở, ruồi, muỗi, kiến, một con tìm cũng không ra. Kẻ khác vừa ở thì có,
Ngài vào ở thì không có . Anh xem chúng nó có linh tánh đấy . Chúng nó
chẳng phải là vô-tri. Đối với người có đại đức, chúng nó rất tôn trọng .

Tổ Ấn-Quang có đại đức, chúng ta không có đức hạnh đó thì chúng ta dùng
tâm chơn thành . Thành tức linh. Chí thành cảm thông, có thể được cảm
ứng .

Đây là khi nãy dạy quý vị tụng Kinh, niệm Phật, hồi
hướng, truyền thọ Tam Quy cho chúng nó; sau đó khuyên chúng di chuyển:
"Chúng bây cũng có lợi, ta tránh được vừa sát sanh, vừa phá giới, chúng
bây lại mất mạng . Chúng bây dọn đi, chúng ta hai bên đều có lợi". Rất
có hiệu quả, xin cứ thử xem.

Nên tụng Kinh siêu độ Cho oán thân trái chủ

Vẫn còn một việc nữa, điều này chúng ta cần nên làm. Đặc biệt là thời đại
hiện nay, chúng sanh tao nghiệp ác rất nặng, quả báo quá nhiều lần, khổ
không thể tả sao cho xiết! Những đồng tu học Phật chúng ta phải có lòng
từ bi, phải có lòng thương xót; phải thường giúp đỡ chung sanh đã tử nạn
.

Chúng ta mỗi ngày tu trì, tụng Kinh niệm Phật, làm việc
thiện, đem những công đức này chơn thành vì họ mà hồi hướng, nếu như đạo
tràng tiện lợi . Như tôi, ở Đài-Bắc có một ngôi đạo tràng nhỏ, ở trên
lầu . Đó là Hoa Tạng thư viện của chúng tôi. Mỗi tháng vào tuần lễ cuối,
chúng tôi làm một Pháp Hội Tạm Thời Hộ Niệm . Những đồng tu ngày thường
đến nghe Kinh thường tham gia, độ chừng một hai trăm người, để tụng
Kinh siêu độ tất cả chúng sanh trên toàn thế giới . Cũng tức là đem
những oán thân trái chủ trong nhiều kiếp đến nay có thể hoá giải . Chúng
tôi thành tâm thành ý để làm . Mức độ cảm ứng thật bất khả tư-nghị .

Chúng ta trong sanh hoạt hằng ngày làm thế nào đối diện với những sanh hoạt
này, làm thế nào hoá -giải những oan nghiệp của đời quá khứ và hiện tại .





Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:18 am

CHƯƠNG BẢY: MỘT KINH-NGHIỆM HỌC PHẬT CHO NGƯỜI MUỐN VÃNG SANH
Hoà-Thượng giảng giới thứ ba tức là "Thâu Đạo".

Thâu Đạo nói ở đây chẳng phải là trộm cắp đồ vật con người . Những ngôn hành
gian trá, quái lạ, huyền hoặc khủng động (huyền là khoe khoang, hoặc là
mê hoặc người, khủng là khủng bố hăm doạ) cách làm này mục đích của nó
là mong cầu được cúng dường, tham đồ lanh lợi, tất cả đều là Đạo giới.
Cho đến một niệm mong cầu lấy được lợi dưỡng, đều là Thâu Đạo .

Do đây có thể biết, giới Đạo trong Phật pháp phạm vi vô cùng rộng lớn .
Bất luận anh hùng thủ đoạn gì để đạt được danh lợi, đều gọi là trộm cắp
(thâu đạo). Điều này chúng ta không thể không cẩn thận .

Người xuất gia, nhận sự cúng dường của tín -chúng tại gia, có cho là trộm cắp
hay không ? Điều này phải tự hiểu mình . Nếu chúng ta dùng các thứ
phương-pháp hy vọng có được cúng dường, là đã phạm giới trộm cắp .

Chúng ta trong tâm không có một niệm, người ta tự đống đến cúng dường, tuyệt
đối không dùng phương-pháp để dụ dỗ họ; đó là không phạm giới trộm cắp .
Nhưng quý vị nên ghi nhớ, Phật môn thường nói: "Một hạt gạo của thí
chủ, lớn như núi Tu Di. Kiếp này không liễu đạo thì phải mang sừng, đội
lông để trả". Những gì hôm nay thí chủ cúng dường cho chúng ta, chúng ta
phải thật sự thành tựu . Cái thành tựu thấp nhứt là vãng sanh đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới . Những người cúng dường đều có phước, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới thì một đời hoàn thành Phật đạo . Họ giúp
anh thành tựu đạo nghiệp, họ có phước . Nếu như Tây Phương Cực Lạc thế
giới chưa đi được thì những cúng dường là, họ cho ta mượn, tương lai đều
phải trả . Nói một cách khác, anh mượn nhiều thì tương lai phải trả
nhiều, mượn ít thì trả ít . Bây giờ dùng nó thì rất tiện, dùng càng
nhiều càng tốt, khi trả thì phiền phức . Lúc mượn ít thì khi trả cũng ít
. Món nợ này phải trả cho đàng hoàng .

Bởi vậy thời đại hiện nay và trước kia không giống nhau. Trước kia, người xuất gia nhận cúng
dường là "tứ sự cúng dường", (tứ sự là thức ăn, uống, ngoạ cụ, thuốc
men). Hiện nay thì dùng tiền để thay thế mọi người đều cúng tiền . Tiền
cúng dường càng ngày càng nhiều . Khi không có tiền thì có đạo tâm, khi
vừa có tiền nhiều thì mê. Cho nên tôi thường nói, cư sĩ tại gia nên cẩn
thận việc cúng dường . Người xuất gia này có đạo tâm, cuối cùng thí chủ
làm cho họ mê, lôi họ trở lại thế tục, khiến họ phạm tội . Nên cư sĩ tại
gia cũng vậy, cũng đều có lỗi, nên ta phải đề cao cảnh giác . Bất luận
thế nào, anh ra khỏi Tam giới . Tương lai sẽ phải trả nợ . Tôi học Phật,
những đạo lý này tôi lo rất rõ ràng, rất minh bạch, cho nên tôi rất cẩn
thận . Tôi có cách làm của tôi. Họ đến cúng dường không nhận thì không
được . Nhứt định phải kết duyên với họ . Phải tiếp nhận cúng dường . Sau
khi tiếp nhận rồi, tôi đem nó bố thí hết . Trong việc bố thí của tôi,
điều khoản lớn nhứt là in kinh. In kinh bố thí . Nếu tôi không ra khỏi
Tam giới, thì những người này trả nợ cho tôi .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Vừa qua có nhiều Liên hữu viết thơ hoặc gọi điện thoại, hỏi chúng
tôi: "Tại sao kinh nói thời mạt pháp kinh điển sẽ mất dần, mà bây giờ
chúng tôi thấy kinh sách, băng cassette dẫy đầy vậy ?"

Chúng tôi đáp: "Lời kinh không sai. Nhưng các bực tôn đức Tăng Ni và cư sĩ
muốn cho Phật pháp được còn lâu dài với thế gian, nên đã cố gắng in
kinh, sách, Kinh Đại Niết Bàn nói: "Ngày nào người thọ trì đọc tụng Kinh
Đại Niết Bàn bị khinh chê; dó là thời kỳ Phật pháp sắp diệt".

Hoà-Thượng Tịnh-Không tiếp, chúng ta xem phần Kinh Văn:

" A-Nan! Lại như chúng sanh lục đạo trong thế giới, tâm không thâu đạo, thì không theo dòng sanh tử nối tiếp".

Nói một cách khác: nếu có ý niệm trộm cắp thì không ra khỏi luân hồi, thì không thể liễu sanh tử .

Ông tu pháp Tam-muội, cố ra khỏi trần lao, nếu lòng thâu đạo không trừ, thì không ra khỏi trần lao được .

Trần lao ở đây là chỉ cho tam giới, lục đạo .

Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn được lòng thâu đạo,
chắc phải lạc vào tà đạo, hạng trên thì thành tinh linh, hạng giữa thì
thành yêu mị, hạng dưới thì thành người tà đạo, bị các loài quỷ mị nhập
vào; các bọn tà đạo cũng có đồ-chúng mỗi mỗi tự xưng là thành đạo
Vô-Thượng"

Người Trung Quốc gọi bọn Tà đạo là yêu tinh.

Không đoạn Dâm mà tu đạo Bồ -Đề đều rơi vào Ma đạo . Không đoạn Sát thì rơi
vào Quỹ Đạo . Không đoạn Thâu Đạo, thì thành Yêu Tinh. Đầy là Yêu - Ma -
Quỷ - Quái .

Những loại Yêu-Ma-Quỷ Quái này, thời kỳ Mạt pháp
rất nhiều . Nếu chúng ta bình tĩnh mà quan sát thường thường có thể thấy
được . Nhưng quan trọng nhứt, chúng ta phải bình tĩnh mà suy nghĩ, xem
mình có phải Yêu - Ma - Quỷ Quái hay không ? Đây mới là quan trọng .

Thời đại này Pháp nhược, Ma cường, chúng ta cũng không thể đắc tội với chúng
. Cho nên, thái độ của chúng ta là phải "kính nhi viễn chi".

Kinh dạy tiếp:

"Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều những hạng yêu mị tà
đạo ấy sôi nổi trong thế gian, chúng lén lút gian dối, tự xưng là
Thiên-trí -thức, mỗi người tự xưng đã được đạo-pháp thượng nhân, lừa gạt
kẻ không biết, doạ -dẫm khiến cho mất lòng chánh tín; chúng đi qua đến
đâu, cửa nhà người ta đều bị hao-tổn tan-nát".

Hoà -Thượng Tịnh -Không nói:

Những
thứ yêu ma quỷ quái này, thứ lớn đều có thần thông. Thần thông rất làm
mê hoặc người . Nếu qua lại vói nó, vài năm sau, qua lời Phật nói trong
kinh cửa nhà hao tổn tan nát . Lúc đó hối hận cũng không kịp nữa . Điều
này không thể không biết . Điều bất hạnh nhứt là đã bị trúng độc rất
sâu, biến thành thần -kinh phân liệt (đây là danh từ khoa học hiện nay)
phải vào bịnh viện tâm thần (nhà thương điên) không cứu được nữa . Tương
lai một đời người bị huỷ hoại mất . Tôi đã gặp rất nhiều những nạn nhân
này, đều là hạng trí -thức cao đẳng . Thậm chí có người đã đậu bằng
thạc sĩ, bác sĩ, vẫn trở thành nông nổi này . Thật là đáng thương, thật
là bi ai.

Có nhiều người trúng độc nhẹ hơn một tí, nhưng đã bị
nó khống chế . Họ thường tự cảm thấy có ma ở trong người . Ý chí của
chính họ không thể tập trung, không thể làm chủ . Sức mạnh vô hình của
ma ở trong đó khống chế họ .

Có lúc tôi đang giảng kinh, họ gặp tôi hỏi:

- Tôi đã bị ma nhập một hai năm rồi, Pháp sư có cách gì đuổi con ma ở trong tôi không ?

Tôi đáp:

- Tôi không có khả năng này . Tôi học giáo, chứ không học qua thần thông, đối phó không nổi mấy con ma này .

Cho nên tôi mới hỏi họ:

- Ông ưa thích thần thông lắm phải không ?

- Dạ phải !

Tôi nói:

- Phải rồi, là vì ông khởi một niệm thần thông, cùng với nó cả hai đều liên hệ lẫn nhau, thì ông đã bị hắn lừa!

Cho nên người học Phật phải biết, Bồ-Tát A-la-hán đều có thần thông. Nhưng
mà trogn Phật môn không lấy thần thông làm Phật sự . Cái gì gọi là làm
Phật sự, tức là tiếp dẫn chúng sanh, giáo hoá chúng sanh, nhưng tuyệt
đối không dùng thần thông. Vì yêu ma quỷ quái có thần thông, nếu Phật và
Bồ-Tát cũng dùng thần thông thì Phật Bồ-Tát cùng yêu ma quỷ quái lẫn
lộn phải không ?

Hoà-Thượng Tịnh-Không hỏi: "Anh từ đâu để phân biệt ?" và nói: "Thế nên chư Phật, Bồ-Tát có thần thông mà không dùng".

Đó là Ngài cố ý nói cho biết: "Hễ thấy ai dùng thần thông, thì đó là yêu ma quỷ quái . Chớ chẳng sai."

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Ngày xưa, một dạo nọ, Đức Thế Tôn đi đến bờ sông Hằng, nơi mà các đạo sĩ Bà
-la-Môn thường đến để thi thố thần thông. Một đạo sĩ mới khoe với Đức
Phật rằng tôi tu đã năm mươi năm, tôi có thể đi từ bờ sông Hằng bên này
đến bờ sông Hằng bên kia mà không cần đến tiền đò . Lúc đó Phật mới nói
với vị đạo sĩ: "Ông tốn 50 năm để đi trên mặt nước sông mà không chìm,
tôi chỉ tốn 3 xu thôi". Đây là 3 xu tiền đò .

Cái tu thần thông
ấy không cần-thiết đối với người tu học Phật . Đây là lời dạy của Phật
mà nhiều người không lưu tâm, lo chạy theo thần thông. Nó chẳng có lợi
gì cho người tu học Phật . Thần thông chẳng giúp ích cho việc vượt khỏi
luân hồi, vượt qua Tam giới, hay vãng sanh Cực-Lạc . Năm mươi năm tu tập
tốn bao nhiêu công-đức chẳng lợi ích gì . Nếu năm mươi năm đó, một
người suốt ngày chỉ xưng niệm không ngừng một câu Phật hiệu, thì đã vãng
sanh về Cực-Lạc ở Thượng Phẩm Thượng Sanh rồi .

Vì vậy, chúng tôi xin khuyên chư Liên hữu đừng bao giờ quan tâm đến thần thông để
tránh trở thành quyến thuộc của ma. Vì nếu đã dính vào, thì việc thoát
khỏi luân hồi trở nên khó khăn .

Hòa-Thượng Tịnh-Không nói: "Anh hiếu kỳ thì bị bọn yêu ma quỷ quái lừa . Tâm anh phải thuần chính .
Đối với những trò kỳ quái này, không nghe không hỏi, sống trong
an-nhiên, ma đối với anh cũng chẳng làm chi được . Chúng không thể nhập
vào người anh. Điều này chúng ta cần phải biết . Chúng ta cũng không thể
dùng phương pháp dối trá đó để dụ hoặc những đồng tu. Phải biết quả báo
vô cùng đáng sợ . Nếu anh dùng những thứ này, nói một cách khác, là anh
tự cam chịu đoạ lạc . Sau khi bị đoạ lạc, tương lai từ trong ác đạo trở
ra, vẫn phải trả nợ . Không thể nói, sau khi tôi đã đoạ lạc thì nợ
không cần phải trả . Không có chuyện dễ dàng như vậy . Vẫn phải y theo
như cũ mà trả nợ .

Xem tiếp Kinh Văn phía trước:

- Ta dạy hàng Tỳ Kheo thứ lớp khất thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ-Đề .
Các hàng Tỳ Kheo không tự nấu ăn, gởi cái sống thừa tạm bợ, phiêu bạt
trong ba cõi thị hiện một phen đi về, đi rồi không trở lại nữa .

Hoà-Thượng nói: "Đoạn khai thị này rất quang trọng, nếu như thật sự y theo mấy câu
khai thị này mà phụng hành, có thể nói: "Người này là người thật sự
giác ngộ". Chúng ta hiện nay ở trong xã-hội hiện đại . Tuy rằng hiện nay
chế độ khất thực không còn tồn tại . Vào thời xưa, giữa đời nhà Đường
bắt đầu, Mã-Tồ kiến-thiết tòng lâm, Bá Trượng lập thanh quy. Đây là hai
vị Đại Đức theo sự ghi chép sử truyền, là Đại Bồ-Tát tái lai, giúp đỡ
cho Phật giáo đi vào khuôn mẫu Trung quốc hoá. Bá-Trượng đã hiện đại hoá
Phật giáo Trung-Hoa, khiến sanh hoạt của kẻ xuất gia, một mặt vì tự
mình để canh tác tự lực kiếm ăn. Bá-Trượng Đại sư nói, một ngày không
làm, một ngày không ăn. Điều này khác với chế độ nguyên thuỷ Ấn-Độ hoàn
toàn khác nhau.

Cho nên, đoạn trước đã trình bày với quý vị,
trong giới luật chỉ có 4 trọng giới Sát - Đạo - Dâm - Vọng là vượt khỏi
thời gian không gian. Bất luận xưa hay nay, ở Trung Quốc, Ấn-Độ hay bất
cứ nược Phật giáo nào, cũng đều không thay đổi . Ngoài ra tuỳ địa
phương, hoàn cảnh sanh hoạt xã -hội mà có thể tu chính .

Chúng ta gọi Thanh Quy, là giới luật đã được hiện-đại hoá . Hiện nay tuy là
nhận được sự cúng dường của tín đồ, chúng ta không cần tự lực kiếm ăn.
Đức Phật Thích Ca dạy khất thực là để diệt trừ tham niệm . Chúng ta phải
nắm vững tinh thần này, đoạn trừ tâm tham (trong gới Thâu Đạo là cũng
trừ tâm tham). Cho nên, sanh hoạt cần phải đơn giản . Mỗi ngày chúng ta
có thể ăn được no, có thể mặc được ấm là có thể an tâm tu rồi . Những
cái còn thừa lại đừng nên cất giữ . Phật trong kinh thường nói: "Tập tài
tán đạo". Tiền bạc chẳng phải là đồ tốt . Anh xem tiền tài, Trung Quốc
gọi là thông hoá . Thông là lưu thông, Anh tập trung nó lại là không
thông, khi không thông là thối . Nước nếu không thông thì thối, phải làm
cho nó chảy thông. Tiền tài cũng phải lưu thông đừng nên tích trữ .
Chúng ta đã đủ dùng rồi, còn lại thì nên đem mà bố thí . Xoay quầng bố
thí . Cái cần bố thí nhứt là tinh thần . Cuộc sống tinh thần ngày nay
nói chung quá ư nghèo túng . Cái quan trọng nhứt là Chánh-pháp . Bố-thí
Phật pháp, bố-thí Chánh-pháp đều có thể cứu vãn thế đạo, nhơn tâm. Chỉ
cần chúng ta tận tâm, tận lực để làm . Thật là công-đức vô lượng .

Cho
nên tôi thường hay khuyên quý vị phải tu bố thí . Anh tu bố thí tài,
anh được giàu có, một đời anh tiền tài chi dụng không thiếu thốn . Anh
tu bố thí pháp, được thông-minh trí tuệ . Trong bất cứ hoàn cảnh nào, sẽ
không bị mê-hoặc điên đảo . Anh tu bố thí vô-uý, anh nhứt định khoẻ
mạnh sống lâu. Tiền tài, trí tuệ, khoẻ mạnh sống lâu, chúng ta đều cần
đến tại sao không tu ?

Trước khi chưa xuất gia, tôi tạo nghiệp sát rất nặng . Sau khi tôi xuất gia học Phật, tôi biết được nhơn quả
đáng sợ . Tôi tận tâm tận lực để tu bố thí . Khi ngày đầu tiên xin đi
tu, tôi gặp Chương-gia Đại sư, tôi nêu ra một vấn đề - vì lúc ấy đối với
Phật pháp tôi có chút ít nhận thức - rằng Phật pháp rất hay, tôi muốn
học, có cách nào giúp tôi đi nhanh vào vần-đề không ?

Khi tôi đặt ra vấn-đề này, Ngài trố mắt nhìn tôi, suốt nửa giờ một lời cũng
chẳng nói . Ngài tập trung đăm đăm nhìn tôi. Tôi cũng nhìn Ngài . Nửa
giờ sau, tâm đọng lại, vọng niệm tiêu mất . Ngài mới nói lên sáu chữ:
Nhìn được thấu, buông được xuống". Mỗi chữ Ngài kéo rất dài . Nghĩa này
tôi hiểu được một tí . Tôi lại hỏi: "Xin thỉnh giáo Đại sư, vấn-đề phải
từ đâu hạ thủ ?" Lần này thời gian không dài như trước . Đại-khái cũng
mất 15 phút . Rồi Ngài thốt ra hai tiếng: "Bố-Thí!"

Cho nên chiều sâu của ấn-tượng này, một đời của tôi vẫn vĩnh viễn không quên

Tôi cáo từ Ngài . Ngài rất từ bi đưa tôi ra tận cửa . Tới cửa, Ngài vỗ nhẹ
vai tôi, rồi nói: "Hôm nay, tôi dạy ông sáu chữ, ông cố gắng học đàng
hoàng trong sáu năm nhé!"

Ngài cho tôi một câu như vậy . Tôi
thật biết luân hồi . Tôi thật tình học hết sáu năm. Sáu năm đã xong thì
có cảm ứng . Cái cảm ứng bất khả tu nghì .

Anh không chịu tu thì không có cảm ứng . Anh chịu-tu thì có cảm ứng . Sau một thời gian tu
học Phật pháp, tôi liền có ý muốn xuất gia. Lúc đó tôi ở Đài-Loan chỉ
có một mình, không gia đình nhà cửa . Tôi nói tôi theo đuổi ngành này
rất thích hợp. Tôi bèn báo cáo với Đại sư. Đại sư bảo tôi: "Ông không
cần đi tìm đạo tràng, không cần tìm thầy ." Tôi nói: "Vậy tôi làm sao
xuất gia ?". Ngài nói: "Nếu Ông đi tìm thầy, thầy đó không chịu thí
phát, vậy chẳng sanh phiền não hay sao ?. Tôi nói: "Vậy thì làm sao" ?
Ngài đáp: "Cầu Phật và Bồ-Tát cảm ứng!"

Ngài chỉ điểm tôi chỗ này, cho nên tôi bố thí sáu năm, nhơn duyên thành thục, quả nhiên sư phụ
đến tìm tôi, mời tôi xuất gia. Trong một tháng mời hết chín lần . Mời
thật thành-khẩn, nên tôi nhận lời . Tôi nhận lời xuất gia, và xin một
điều kiện là phải cho tôi được đi học Phật pháp với Thầy Lý .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Quả đúng là Phật pháp mầu nhiệm. Sáu năm bố thí của Ngài cảm ứng,
nên Thần Hộ Pháp đã thúc giục sư-phụ đi tìm học trò và thành-khẩn mời
tới chín lần. Câu chuyện nhắc chúng tôi nhớ đến chuyện của chú bé Bankei
ở Nhật. Khi còn nhỏ Bankei thích một tượng Phật nhỏ của vị Hoà-Thượng ở
làng kế cận. Lúc đó Bankei chưa đi tu, nghĩ rằng nếu ta thành tâm cầu
nguyện một tháng chắc chắn sẽ được như ý. Thế là Bankei bắt đầu mỗi ngày
đều ngồi cầu nguyện cho tượng Phật ấy đến với Bankei. Tới chiều thứ hai
mươi chín, Ngài nói với một người bạn rằng: "Đạo Phật chắc chẳng đáng
tin". Nhưng đến chiều hôm sau, vị Hoà-Thượng đến gõ cửa và nói: "Ta
tưởng, tượng Phật này nên ở với ngươi". Từ đó Bankei tu theo đạo Phật,
trở thành Thiền sư danh tiếng .

Cầu tức có ứng! Chư Liên hữu nên thành tâm cầu Phật, Bồ-Tát, phải chơn thành và lâu dài, chắc chắn sẽ
được như ý . Cầu nguyện vãng sanh cũng vậy, nhứt tâm niệm Phật chắc
được Vãng Sanh!

Hoà-Thượng Tịnh-Không kết luận:

Pháp thế gian không tham, mà Phật pháp cũng không tham. Vì nếu anh tham Phật
pháp thì anh sẽ không tinh chuyên. Một đời tu học của anh, có thể nói,
chỉ học được ngoài da thôi, đó là Phật pháp thường thức mà thôi. Còn
tinh hoa của Phật pháp anh nhứt định không đạt được . Muốn học được cái
tinh-hoa của Phật pháp, cổ -đức thông thường dạy chúng ta: "Phải một môn
thâm nhập, anh mới đạt được". Nếu anh hiểu rõ đạo lý này, thì ngay đến
Phật pháp cũng không tham, Phật pháp cũng phải buông bỏ . Khi còn trẻ,
tôi không biết đạo lý này . Tuy thầy thường dạy nhưng tôi cũng không
tin, vẫn cứ ưa thích học rộng nghe nhiều . Những năm về trước tôi giảng
Kinh Đại Thừa rất nhiều . Hầu như mỗi địa phương mời tôi giảng kinh, yêu
cầu tôi giảng kinh thì tôi đều có thể giảng. Nhưng những năm gần đây,
lần hồi giác ngộ, công phu cũng dùng được đắc-lực, mới thật sự hiểu rõ
một câu nói của cổ đức đích thực là "Khổ khẩu bà tâm", nhứt định không
gạt người .

Vì vậy tôi đem tất cả Kinh Đại Thừa thảy đều buông
xuống; học Ngài Liên-Trì-Đại sư, Tam Tạng thập nhị bộ (tức 12 bộ Kinh)
nhường cho kẻ khác ngộ; tám vạn bốn ngàn hạnh mặc cho người khác hành .
Còn tôi thì từ nay một cuốn Kinh Vô Lượng-Thọ , một câu A-Di-Đà Phật một
môn thâm nhập .

Cho nên bảy năm nay, Kinh Vô Lượng -Thọ tôi đã
giảng rất nhiều lần . Mỗi lần giảng đều không giống nhau, cảnh giới một
lần giảng đều khác nhau. Mỗi lần tâm đắc đều khác nhau. Mỗi một lần thụ
dụng đều khác nhau. Đều là từ chuyên, từ tinh mà có được . Đây là
kinh-nghiệm trogn 40 năm tu học của chính tôi. Cho nên học quá nhiều,
chưa hẳn là việc hay. Nay Phật Học Viện mời tôi đi dạy, tôi không dám,
vì tôi biết cách đó sẽ không thể thành tựu . Vì đó gọi là "xào thập
cẩm", không phải tinh-chuyên, rất khó thành tựu .

(Điều này chúng ta nhớ đến vị Hoà -Thượng xe buýt Việt Nam, Ngài Thích-Trí-Chơn.
Hoà-Thượng quyết từ đây chỉ giảng Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, và giữ chặt
một câu Nam Mô A-Di-Đà Phật).

Hòa-Thượng Tịnh-Không tiếp: "Đây là sau khi thật sự giác-ngộ rồi hạ quyết tâm: "Tâm tham đoạn trừ". Tự
mình biết được, ở thế giới Ta bà này, trong xã-hội hiện -thực này của
chúng ta; thân của ta nay gọi là thân sau cùng, lần sau không đến nữa,
vì đã vượt khỏi Tam giới luân hồi . Một phen đi rồi không trở lại nữa .
Lần này tôi đến, lần sau không đến nữa . Lần sau đi về Tây Phương
Cực-Lạc Thế giới mất rồi . Không trở lại nữa . Dù cho lần sau có đến
nữa, đó là thân phận của Bồ-Tát tình-nguyện trở lại . Tuyệt đối chẳng
phải là phàm phu vì nghiệp lực mà đến đầu thai. Như vậy là chính xác .
Phải nhứt định vững vàng hạnh nguyện . Phải y giáo phụng hành . Thoát ly
tất cả chướng ngại, trong một đời này chắc chắn thành tựu .

Hoà-Thượng đọc tiếp kinh:

"Làm sao, bọn giặc cướp mượn y phục của ta, buôn bán Như-Lai, gây các thứ
nghiệp mà đều gọi là Phật pháp, lại còn chê bai các vị Tỳ-Kheo đầy đủ
giới luật xuất gia là đạo Tiểu-Thừa; do đây làm Vô lượng chúng sanh mắc
phải nghi-lầm, nên sẽ bị đoạ vào ngục vô gián

ĐỐI THOẠI GIỮA PHẬT VÀ MA BA-TUẦN

Đoạn này Thế-Tôn chỉ rõ thời kỳ mạt pháp, cái gọi là Ma con, Ma
cháu thừa lúc Phật-pháp suy vi, trà trộn vào trong Tăng đoàn phá hoại
chánh-pháp. Sự thật này, trong kinh điển, Phật từng nói qua với chúng
ta. Khi Thế-Tôn còn tại thế, Ma Vương từng nói với Phật rằng: "Chúng tôi
sẽ phá-hoại Phật pháp!"

Phật mới nói với chúng nó: "Chư Phật Như-Lai, chỗ nói chánh-pháp bất cứ loại Ma ngoại nào cùng không thể phá hoại được".

Ma mới nói: "Chờ đến ông vào thời kỳ Mạt pháp, tôi sẽ bảo Ma con, Ma chúa
của tôi, tất cả đều xuất gia, đều khoát lên cà sa để phá-hoại Phật
pháp".

Nghe xong, Phật chẳng nói một lời, mà chỉ rơi nước mắt .

Đó là chỉ cho lời Phật nói trong Kinh. Cho nên Phật nói: "Tỷ như Sư tử
trùng, hoàn thực sư tử nhục" (có nghĩa là khi con sư tử chết, không con
vật nào dám ăn thịt sư tử cả . Nhưng giòi bọ bên trong thân sư tử lại ăn
thịt sư tử). Đây là người hiện nay nói, chúng ta thâm sâu vào trong cửa
Phật, chúng nó thật sự chẳng phải là đệ tử Phật. Chúng nó là yêu ma quỷ
quái, thâm sâu vào trong Tăng-đoàn . Bởi thế cho nên Phật tử chân
chánh, không chỉ là xuất gia, tại gia cũng chẳng ngoại lệ, tứ chúng đồng
tu đều phải có tuệ nhãn, đều phải phân biệt. Nhứt là tự mình thường
thường phải kiểm-điểm phản tỉnh, chúng ta có bị những yêu ma quỷ quái
này làm ô-nhiễm hay không? có bị chúng làm ảnh-hưởng không ? có bị chúng
lôi vào hầm lửa không?

Bọn giặc là chỉ cho yêu ma quỷ quái, kể cả ma quỷ phía trước đều gồm luôn trong đó; cũng gồm luôn vọng ngữ ở phần sau.

Kinh nói: "Mượn y phục của ta, chúng cũng xuất gia, cũng mặc áo hải-thanh,
mặc áo cà sa 'Tỳ phán Như-Lai' tức là buôn bán Như-Lai".

Hiện nay trong xã-hội cũng có một câu nói, đối với Phật-giáo rất là khó nghe,
tôi cũng từng nghe được: "Khai miếu điếm", tức là "buôn bán chùa
chiền". Đem Phật pháp coi như là hàng hoá để buôn bán . Đây tức là
tiêu-chuẩn của việc buôn-bán Như-Lai, cũng là thâu đạo.

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Nơi chương bảy này, Hoà-Thượng Tịnh-Không dạy nhiều điều rất hữu ích. Đối
với chúng tôi điều căn bản là, chúng tôi phải tìm ra chỗ nào Hoà-Thượng
giảng liên-quan đến câu hỏi của chúng tôi: [b]"Niệm Phật cách' nào chắc
được Vãng Sanh?"

Từ đầu sách đến đây, chúng tôi đã lập đi lập
lại ở nhiều chỗ, chỉ mong chư Liên hữu lưu ý điểm quan trọng này và giữ
nằm lòng. Nơi chương Tổng Kết-luận chúng tôi sẽ tóm tắt lại .

Hoà-Thượng Tịnh-Không tu học 40 năm, chuyên dạy rất nhiều kinh-điển Đại-Thừa.
Nhưng rồi Ngài giác-ngộ, biết rằng nếu muốn được Vãng Sanh Cực -Lạc,
phải đúng lời Thầy của Ngài dạy . Thầy của Hoà-Thượng, là Cư-sĩ
Lý-bỉnh-Nam, dạy rằng: "Phải một môn thâm nhập anh mới đạt được".

Rồi Hoà -Thượng nói:

-
Vì vậy tôi đem tất cả kinh Đại-Thừa đều buông xuống, học Ngài Liên-Trì
Đại sư, Tam Tạng thập nhị bộ Kinh nhường cho kẻ khác ngộ . Còn tôi thì
nay một cuốn Kinh Vô Lượng-Thọ, một câu A-Di-Đà Phật, một môn thâm nhập .

HIện nay tại các chùa Việt -Nam đa số các Sư vẫn trì tụng và giảng dạy đủ
các kinh Đại-Thừa . Hành sử như Hoà-Thượng Tịnh-Không đúng hay sai
Phập-pháp ? Ngài đã buông bỏ tất cả, chỉ dùng cuốn Kinh Vô Lượng Thọ có
đúng không ?

Thật tình mà nói, trong Kinh Niệm Phật Ba-la-Mật dạy rõ ràng:

"Muốn Vãng Sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ . Vì danh
hiệu. Phật chính là biểu-tướng của Pháp Thân, cho nên niệm danh hiệu tức
là niệm Pháp thân Phật, và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm pháp môn
nào nữa".

Lời Đức Phật dạy thật rất rõ ràng "Muốn Vãng Sanh Cực-Lạc chỉ cần niệm danh hiệu Phật, khỏi phải kiêm thêm pháp môn nào nữa!"

Mỗi chúng sanh chúng ta tu theo Phật, để làm gì ?

Chúngta tu Tịnh Độ, niệm danh-hiệu A-Di-Đà Phật để làm gì ? Để Vãng Sanh
Cực-Lạc ? Hay để được phước báu cõi Trời, hay để được lại thân người ?
Nếu chúng ta thật sự muốn Vãng Sanh nên nghe lời dạy của Hoà-Thượng
Tịnh-Không.

Chư vị nào đã đọc cuốn Đường Về Cực -Lạc của Hoà
-Thượng Thích -Trí -Tịnh chắc là nhớ chuyện Giác Minh Diệu -Hạnh Bồ -Tát
. Ngài là bậc đã Vãng Sanh Cực -Lạc, sau đó, do tâm nguyện Ngài trở lại
Ta bà để độ chúng sanh trong nhiều đời . Ngài dạy:

"Trong thất chỉ cúng một tượng Phật, một bộ kinh, một bàn thờ, một lư hương, một bàn, một ghế . Chẳng nên để nhiều đồ vật khác".

Tổ sử Ấn-Quang cũng chỉ có một tượng Phật trong thất . Vì kinh nói, niệm
một danh hiệu Phật, đồng như niệm mười phương chư Phật . Cho nên Giác
Minh Diệu-Hạnh Bồ-Tát nói một tượng Phật, một bộ kinh là đủ .

Đây là thời Mạt pháp căn cơ chúng sanh cạn cợt, tâm trí yếu kém, nếu ta tập
trung vào một vị Phật, đó là Phật A-Di-Đà thì sẽ dễ dàng hơn . Nhiều
người sợ mình đã quen niệm Phật Thích-Ca, Phật Dược-Sư, bây giờ chỉ niệm
Phật A-Di-Đà chẳng rõ có bị chư Phật giận không ?

Chắc chắn các Ngài không giận đâu. Phật dạy tu đừng có chấp, cho nên các Ngài không bao giờ chấp .

Kinh sách có câu: "Cúng dường mười phương ba đời chư Phật, không bằng cúng dường một người vô tâm!"

Người vô tâm là ông Phật của mình . Mình niệm một danh hiệu để chắc được Vãng
Sanh để được thành Phật, thì Phật đâu có bắt lỗi . Tuy nhiên, đầu các
thời khoá niệm Phật, cũng có thể niệm tất cả chư Phật một lần .

Chúng tôi thật buồn, khi nghe một số băng giảng, có Sư nói rằng được lên Cõi
Trời là quý lắm rồi . Đây là Sư chẳng giúp chúng sanh thoát khỏi Tam
giới . Đó là sai với Chánh-pháp của Phật .

Viết sách này, mục đích chúng tôi là xiển dương pháp môn Niệm Phật, muốn tất cả chư Liên
hữu đều được Vãng Sanh Cực-Lạc . Chúng tôi tha thiết muốn được thấy chư
Liên hữu, những bạn sen của chúng tôi đều nên hiểu, nếu muốn chắc được
Vãng Sanh nên nhứt tâm niệm danh-hiệu Phật là đủ, khỏi kiếm thêm pháp
môn nào khác .

Tóm lại, theo sự hiểu biết của chúng tôi, chẳng
những Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng về Pháp môn Vãng Sanh không sai
Chánh-pháp, mà còn thật thù thắng, thật độc đáo .

Chính vì lẽ này, mà khi chúng tôi đã viết nửa phần sách này liền bỏ đi, ra công nghe
bộ băng 10 cuốn và ghi chép thật tốn nhiều thì giờ . Nhưng bù lại, chư
Liên hữu Việt-Nam thêm được sự tin tưởng mà thực hành để chắc được Vãng
Sanh.

Chúng tôi đã gặp rất nhiều vị, cũng tu niệm Phật đi chùa
thật siêng năng. Chúng tôi hỏi chư vị đến chùa hành trì môn gì ? Được
đáp chúng tôi vừa tụng kinh Kim Cang xong, tuần này tụng Hoa-Nghiêm,
tháng tới tụng Pháp-Hoa.

Chúng tôi thở ra. Đây là tụng kinh cho
được phước đức . Muốn chắc được Vãng Sanh nên theo đúng Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật và lời dạy của chư Tổ và chư Tôn đức Tăng Ni đã dày công
nghiêm cứu các Kinh A-Di-Đà .

Xin chư Liên hữu nên xét lại, chỉ
cần bốn chữ A-Di-Đà Phật cho thời này cũng đầy đủ công đức, phước báu,
oai lực, thần lực, nguyện lực của Phật A-Di-Đà và chư Phật mà Vãng Sanh.

Thời này kiếm thêm pháp môn khác, sợ không kịp, không đủ duyên để Vãng Sanh. Vì cái sợ nhứt là lúc lâm chúng đó .








Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 8:51 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:18 am

CHƯƠNG TÁM: NIỆM PHẬT VIÊN-THÔNG LÀ PHÁP MÔN DỄ TU DỄ CHỨNG QUẢ VÃNG SANH
Hòa-Thượng Tịnh-Không đọc tiếp phần kinh văn:

Sau khi tôi diệt độ rồi, nếu có Tỳ Kheo phát tâm quyết định tu phép
Tam-ma-đề, biết ở trước hình tượng Như-Lai, chính mình thắp một cây đèn,
đốt một ngón tay hay ở trên thân, đốt một mồi hương, tôi nói người ấy
túc-trái vô-thỉ, trong một thời trả hết, cáo từ thế gian, thoát hẳn các
lậu .

Phật nói với chúng ta, đó là biểu phát tượng-trưng chẳng phải bảo anh thật sự đem nó đốt đi. Nhứt định phải biết điều này .

Ý nghĩa là ở chúng ta thời thời khắc khắc, phải ghi nhớ rằng: "Tôi đã
từng đứng trước mặt Phật, Bồ-Tát lập lời thề-nguyện xã kỷ vị-nhân, thiêu
đốt tự mình để chiếu sáng kẻ khác". Ý nghĩa trọng yếu là thời thời,
khắc khắc đều nghĩ đến . Đốt ngón tay, đốt cánh tay mang một ý nghĩa là
ngón tay, cánh tay tôi đang phải vì tất cả chúng sanh mà phục vụ, vì tất
cả chúng sanh làm việc, là mang ý nghĩa này .

Đây là ý luôn luôn đánh thức chúng ta vì xã hội, vì đại chúng phục vụ . Nên kinh trên mới có đoạn:

...Tôi nói người ấy túc trái vô thỉ, trong một thời đã trả hết, cáo từ thế
gian, thoát hẳn các lậu . Người ấy tuy chưa hiểu rõ đạo Vô-thượng-giác,
nhưng đối với Phật pháp, tâm đã quyết định; nếu không làm được cái nhân
nhỏ mọn xả-thân ấy, thì dầu thành đạo vô vi, cũng phải lại sanh làm
người, trả các nợ cũ, như quả-báo Mã-mạch của tôi...

Người này trong một đời túc trái từ vô thỉ đã trả hết . Tuy chẳng phải từng việc,
từng việc trên sự tướng đã trả xong, mà cái tâm lợi ích chúng sanh, phục
vụ chúng sanh là thật sự viên mãn . Tôi vì chúng sanh phục vụ, vì chúng
sanh làm việc . Đây là ý nghĩa của sự hoàn trái . Cho nên họ có thể cáo
từ thế gian. Cáo từ tức là vĩnh-biệt lục đạo sanh tử luân hồi . Tuy họ
chưa tu thành chánh quả, chưa chứng Vô thượng Bồ-Đề; nhưng họ cùng chánh
pháp đã quyết tâm tu học kiên cố .

Tại vì sao ?

Vì họ trên sự tướng đã tỏ lộ một cách rất rõ ràng . Đối với tất cả chúng sanh
nhứt định không từ nan cực khổ gian lao. Họ phát cái nguyện này phải
hết lòng để làm . Nếu không làm được cái nhân nhỏ mọn xả thân ấy, thì
dầu thành đạo vô vi cũng phải lại sanh làm người trả các nợ cũ, như quả
báo mã-mạch của ta, thật không sai khác . Chúng ta theo đại ý của kinh
để nói:

Phật chỗ này nói rõ với chúng ta, nếu anh phát tâm
không viên mãn, không kiên-cố, không cứu cánh, dù có cái tâm ấy, cần
phải có hành vi. Tâm nguyện đã có nhưng làm không được, điều này không
thể được . Khi làm phải hết sức để làm thì được viên mãn . Tôi có người
phần lực lượng . Tôi chỉ làm được chín phần, vậy không gọi là viên mãn .
Phải đem mười phần, dùng hết, đây gọi là lực lượng của tâm của thân đều
viên mãn, thì món nợ này mới trả hết vậy .

Quý vị nên nghe cho rõ: "Tôi đã phát tâm viên mãn, nhưng chưa làm được viên mãn thì không
được . Vì sao? Cái tâm anh phát đó là giả . Tâm viên mãn thiệt, phải có
hành viên mãn, hành vi của anh là viên mãn . Hoặc nói một cách khác,
luân hồi anh không dễ ra khỏi . Ra không khỏi luân hồi vẫn phải trả nợ .
Nhân duyên, quả báo thế gian không thể cầu mấy được miễn ."

Ở đây, Đức Thích-Ca Mâu Ni Phật kể cho ta nghe một việc . Kể rằng vào một
kiếp lâu xa, Ngài cũng là một phàm phu tu hành, chẳng phải vừa sanh ra
là thành Phật . Vào kiếp lâu xa trước kia, khi đức Thích Ca Mâu Ni chưa
tiếp xúc với Phật pháp, nhưng cũng là người tu hành theo ngoại-đạo
(Bà-la-Môn) Ngài cũng có đồ chúng (500 đồ đệ). Có một hôm đi trên đường
lúc bấy giờ trên thế gian cũng có Phật ra đời, nhóm ngoại đạo này, gặp
một đoàn đệ tử của Phật, từ vừa hoàng cung ứng cúng trở về . Đức Vua
cúng trai tăng. Đức Phật (thuở đó) lẫn đệ tử ứng cúng . Tại Tịnh Xá có
một Tỳ Kheo đang bịnh nên không thể đến . Cho nên mọi người ăn cơm xong
thì có một đệ-tử lấy một phần ăn đem về cho vị Tỳ Kheo bịnh ấy ăn. Thức
ăn nấu rất ngon, hương vị rất nồng; nhóm ngoại đạo ngửi mùi hương thơm
phức nên sanh tâm đố kỵ . Nhóm đệ-tử ngoại đạo chửi đệ tử của Đức Cổ
Phật rằng: "Bọn đầu trọc các ông không đáng được ăn thức ăn cúng dường
ngon như vậy . Lúa mạch cho ngựa ăn nếu có được để ăn, kể như ngon lắm
rồi".

Người ngoại đạo (tức là tiền thân của Phật Thích-Ca) chửi
như vậy và đồ đệ của ông ta cũng hùa theo để chửi, thì đã tạo khẩu
nghiệp . Mãi cho đến kiếp này, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật (tức người ngoại
đạo những kiếp xa xưa) thị hiện thành Phật rồi phải thọ lãnh quả báo
này .

Chuyện như vầy: Có một vị vua mời Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni đến ứng cúng . Mời qua bên ấy năm sáu ngày. Vua bị ma làm mê hoặc nên
quên hẳn Thế-Tôn và đệ tử .

Không có người dâng cúng dường, lại gặp lúc hạn hán, đi khất thực không xin được thức ăn. Trong lúc ấy
Thế-Tôn gặp một người nuôi ngựa lương thiện . Người nuôi ngựa nói: "Tôi
không có vật gì để cúng dường, chỉ có lúa mạch để cho ngựa ăn. Nếu
Thế-Tôn ăn được, tôi xin chia cho Ngài phân nửa". Cho nên Đức Phật phải
thọ quả báo ăn ba tháng Mã-mạch.

Vì vậy quý vị nên biết, nhân quả báo ứng tơ hào không sai trái . Một niệm sân hân tâm, chửi vài
tiếng, sau này đều phải thọ quả báo .

Đây là nói về nhân duyên của đoạn kinh văn này . Tức là cái nghiệp mình đã tạo thì sau này phải
đền trả . Ngay đến Đức Thế Tôn đã thành Phật cũng không thể miễn được .
Huống chi chúng ta là lục đạo phàm phu.

Xem tiếp phần kinh văn phía dưới:

"Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-Địa, sau nữa phải đoạn cái Tâm Thâu đạo".

Phía trước dạy chúng ta đoạn Dâm, đoạn Sát, đến thứ ba nhứt định phải đoạn Thâu đạo .

"Ấy là lời dạy bảo thanh tịnh của các Như-Lai Tiên Phật Thế-Tôn."

Đây là tất cả chư Phật Như-Lai đều nói:

(Xin nhắc lại, trong sách này, những chữ đứng đậm là trích lời Phật dạy trong các kinh khác).

Để mọi người hiểu thế nào là kinh liễu nghĩa và bất liễu-nghĩa, Ngài Tịnh-Không giảng:

"Phật
nói kinh có liễu-nghĩa và không liễu-nghĩa . Không liễu-nghĩa là cách
nói phương-tiện của Phật, phần nhiều là để tiếp dẫn kẻ sơ cơ; họ đối với
chơn tướng vẫn chưa hoàn-toàn thấu triệt. Đối với Tam giới lục đạo, vẫn
chưa có ý -nguyện thật sự xuất ly, thì đối với họ . Phật nói những kinh
luận ấy. Đó là không liễu-nghĩa. Tuy là giáo lý không liễu-nghĩa, mục
đích vì họ không muốn ra khỏi Tam giới. Họ hy vọng ở trong Tam giới bớt
đi đau khổ, không đoạ Tam đồ (Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh) thường ở
trong Nhơn Thiên. Mục đích của Phật là ở chỗ vượt khỏi Tam giới. Chứng
được cứu cánh viên-mãn Vô lượng Bồ-Tát; gọi là liễu-nghĩa .

Đối với lục đạo phàm phu đây là lời dạy bảo thanh tịnh rõ ràng quyết định . Kinh nói:

Vậy nên ông A-Nan, nếu không đoạn lòng thâu đạo mà tu thiền định, thì cũng
như người lấy nước rót vào chén thủng, mong cho đầy chén, dầu trãi qua
kiếp số như vi trần, rốt-cuộc không thể đầy được .

Phật ở đây kể một tỷ dụ, nếu không đoạn thâu đạo, hành vi thâu đạo không dứt mà tu
thiền định, cũng như một người lấy nước - chữ chi là cái tách phía dưới
có cái lỗ bị chảy - anh lấy nước đổ vào phía dưới chảy hết, vĩnh viễn
không thể đổ đầy. Đây tức là, nếu anh dùng tâm thâu đạo, đi tu thiền
định chắc chắn không thể thành được. Kinh dạy tiếp: Nếu các hàng tỳ-kheo
ngoài y bát ra, mảy may không tích trữ, xin ăn có dư thì bố-thí cho
chúng sanh đói khổ .

Về khất thực, nếu hôm nay xin được rất nhiều thức ăn, ăn không hết không thể dành cho ngày mai. Chế độ của
Phật, anh ăn no xong còn dư lại phải cúng dường cho súc sanh, chim thú,
đem cho chúng ăn, không thể để lại ngày mai. Điều này có rất nhiều đạo
lý . Thuở xưa không có tủ lạnh như bây giờ, vả lại bố thí cho súc sanh
giúp cho người tu thêm phước đức .

Giáo học của Phật pháp là
dạy chúng ta lìa khổ được vui, chớ chẳng bảo chúng ta lìa vui để chịu
khổ. Loại Phật giáo này không ai chấp nhận. Cho nên phải thể hiện sự dạy
bảo của Như-Lai điều này rất quan trọng.

Nhưng, nếu quý vị thật sự đã giác ngộ, thì đối với những người sơ-học, chúng ta đem Kinh
Vô Lượng Thọ (A-Di-Đà Phật) giới thiệu với họ . Đó là thuộc về cứu cánh
liễu-nghĩa).

Có người sẽ hỏi, Kinh Vô Lượng Thọ người sơ-học học được chăng ? Xin thưa quý vị: có thể được!

- Làm sao biết được ?

-
Đại Thế Chí Bồ-Tát trong Viên-Thông Chương, dạy chúng ta. Anh xem
Viên-Thông Chương vừa mở đầu, Ngài nói: "Tôi cùng 52 đồng luân, tức năm
mươi hai giai cấp vị thứ Bồ-Tát, từ Sơ-phát tâm bắt đầu cho đến khi
thành Phật, năm mươi hai giai cấp chỉ tu một pháp môn, một câu A-Di-Đà
Phật niệm đến cùng". Do đây có thể biết một bộ kinh, một pháp môn, từ
lúc Sơ-học cho đến thành Vô-Thượng đạo không cần thấy đổi phương pháp và
có thể thành Phật, đều có thể được!

Vậy chúng ta giới thiệu pháp môn này thì làm sao sai được ? Chắc chắn là chính xác . Ban đầu họ
không biết niệm, không biết không quan hệ . Nên khuyên họ niệm . Có thể
niệm là tốt . Họ không niệm được vì có nhiều chữ không biết . Hiện nay
có băng cassette, tặng họ một băng cassette.

Có thể theo băng, cầm quyển kinh lên mà niệm, thì khó khăn này được giải -quyết . Chỉ cần
từng biến, từng biến mà niệm, không cần giải thích .

Ngày xưa Trung Quốc có nói: "đọc thư thiên biến kỳ ý tự kiến". Số là niệm được nhiều rồi thì tâm họ sẽ được định .

Về cách tụng đọc và ý nghĩa sự tu học trước kia, tôi đã giảng qua rất
nhiều: "Đọc kinh là tu hành, là giới định tuệ trong một lúc tự
hoàn-thành . Chúng ta lật Kinh Vô Lượng Thọ từ đầu chí cuối đọc qua 1
lần . Niệm 2 giờ tức là tu 2 giờ Giới-Định-Tuệ".

Đọc kinh phải chuyên tâm, không chuyên tâm thì sẽ niệm sai, thì niệm sót cả . Phải
niệm cho rõ ràng minh bạch . Niệm xong vài ngàn biến thì tâm sẽ định,
định thì khai trí tuệ . Trí tuệ vừa khai thì nghĩa lý trong kinh sẽ rõ
hết . Điều này thật là tuyệt diệu không thể tả . Cho nên phải nhứt định
có tâm thường hằng, tâm nhẫn nại, từng biến, từng biến mà niệm .

Người ta niệm một ngàn biến thì khai ngộ, còn chúng ta nghiệp chướng nặng một
ngàn biến vẫn chưa khai ngộ, thì chúng ta hạ quyết tâm, niệm một vạn
biến . Một vạn biến có thể sẽ khai ngộ . Một vạn biến mà vẫn chưa khai
ngộ, thì niệm thêm mười vạn biến, chắc chắn khai ngộ .

Thời gian càng dài công phu thiền định của anh càng sâu, tâm càng thanh tịnh
là đạo lý như vậy . Tánh đức tự nhiên lộ ra, Kinh Văn nói:

"Như lời ta nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là
lời nói của ma Ba-Tuần". Đây là Ngài dạy chúng ta phân biệt tà chánh .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Lời nói của Đức Phật lúc nào cũng chân thật . Phật nói, khi đã tạo nghiệp
thì phải trả, dù người đó là Phật, như trường hợp Ngài tự dẫn chứng trên
đây.

Muốn vượt khỏi luân hồi ra khỏi Tam giới phải tu chứng
liễu-nghĩa như Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm dạy, là phải đoạn dứt bốn thứ thuộc
về tam giới. Đó là Dâm - Sát - Thâu đạo và Vọng ngữ . Muốn đạt thành đạo
quả đều phải dùng thiền định . Nhưng, theo Kinh Thủ -Lăng-Nghiêm và
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, thời Mạt pháp này không có người đạt được
thiền định .

Phần trước, Hoà-Thượng Tịnh-Không đã trình bày cho
thấy người xuất gia cũng như tại gia, không thể chiến thắng ba giới Dâm
- Sát - Đạo . Dựa vào Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm muốn thành tựu phải áp dụng
Chương Niệm Phật Viên-Thông của đại Bồ-Tát Đại-Thế-Chí .

Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng Kinhh Thủ-Lăng-Nghiêm này cách đây 9 năm; lúc đó Ngài
đi tu đã 40 năm, chuyên giảng Thủ-Lăng-Nghiêm và kinh giáo khác . Nhưng
sau đó Hoà-Thượng tự biết mình sẽ không thành tựu quả Phật bằng thiền
định nên ngài lập tâm tu theo pháp môn của Đại Thế-Chí Đại Bồ-Tát, giữ
chặt một Phật Hiệu "Nam-Mô A-Di-Đà Phật" và bộ Kinh Vô Lượng Thọ".

Từ đó đến nay, Ngài đi khắp thế giới dạy mọi người pháp môn Niệm Phật. Có
rất nhiều đệ tử của Hoà-Thượng niệm Phật khi lâm chung Vãng sanh lưu
Xá-Lợi . Đệ tử Việt gốc Hoa có người lưu Xá-Lợi như bà Diệu Âm
Huỳnh-Ngọc-Tuyết ở Dallas (Mỹ) và bà Diệu Âm Tô-Vân-Liên ở Sydney (Úc).
Còn vài vị nữa, nhưng chúng tôi không có được cái duyên tiếp xúc thu
thập tin tức . Hoà-Thượng đã ấn-tống một Kinh Tịnh-Độ có hình bìa của
một cư sĩ tên Hạ-Liên-Cư, và sách này đã ấn tống với con số kỷ-lục: ba
triệu cuốn . Đa số đệ tử của Ngài mỗi tuần tu Phật thất hai ngày .

Hòa -Thượng nói đây là pháp môn dễ tu, dễ chứng quả vãng sanh. Niệm Phật
lâu ngày sẽ được định - Niệm một giờ được định một giờ, niệm hai giờ
được định hai giờ và trí tuệ sẽ mở . Khi tuệ vừa khai thì nghĩa thú của
kinh sẽ hiểu hết .

Đây là ý -nghĩa của Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật
mà Đức Phật nói: "Niệm Phật lâu ngày Tâm Thể sẽ thanh tịnh tự nhiên
chứng Sơ-phần Pháp -thân, âm thầm ứng hợp bi Trí Trang Nghiêm của Phật".

Xưa nay các bậc chân tu, tâm được thanh-tịnh đều được tịnh. Tại miền Bắc
Việt-Nam, chùa Đậu, có hai vị Thiền sư tên Đạo Chân Vũ-Khắc-Minh và Đạo
Tâm Vũ-Khắc-Trường, trước khi viên tịch, dặn đệ tử: "Sau đúng 100 ngày
nếu không nghe thấy tiếng gỏ mõ, niệm Phật của ta nữa thì mở cửa am ra.
Nếu thi thể ta còn nguyên vẹn, thì lấy sơn bả lên người ta, còn nếu bị
hôi thúi thì dùng đất lấp am lại".

Đúng 100 ngày sau, không còn nghe tiếng mõ nữa, các đệ tử mở am ra thì thấy cả hai vẫn còn ngồi,
nhưng đã tịch. Đó là toàn thân Xá-Lợi còn giữ đến bây giờ . Đây chính là
cái đại định giúp cho hai nhà sư có được toàn thân xá-lợi . Cái tuệ
hoàn-toàn không ảnh hưởng gì. Nhưng định là dụng của tuệ. Khi có định là
có tuệ .

Nếu hiểu được nghĩa này thì hiểu rõ tại sao nhiều
hành -giả tại gia niệm Phật lâu ngày tâm được tịnh, khi lâm chung lưu
nhiều xá-lợi .


Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 8:53 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:20 am

CHƯƠNG CHÍN: NIỆM PHẬT MÀ LÌA ĐƯỢC "ĐẠI VỌNG NGỮ" CHẮC CHẮN SẼ ĐƯỢC VÃNG SANH CỰC-LẠC
Giờ đây Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng về giới Vọng ngữ .

Vọng ngữ là gạt người . Vọng ngữ có tiểu vọng ngữ, đại vọng ngữ .Ở chỗ này,
Phật chỉ cho ta về đại vọng ngữ, còn tiểu vọng ngữ thì không nặng như
vậy .

Vọng ngữ gồm có nói hai lưỡi . Hai lưỡi tức là sách-động
thị phi, bao gồm ác khẩu . Ác khẩu là lời nói rất thô. Ác ngôn cũng
thuộc về ác khẩu, còn gồm luôn kỹ ngữ . Kỹ ngữ là lời nói thêu dệt xảo
ngữ, dụ dỗ người gây nên Sát - Đạo - Dâm - Vọng .

Những loại thêu dệt, xảo ngữ đều thuộc về kỹ ngữ . Tất cả đều bao gồm vọng ngữ .
Điều này chúng ta cần phải hiểu rõ . Xin xem Kinh Văn:

"A-Nan, lục đạo chúng sanh trong thế giới như thế, tuy nơi thân tâm không còn
sát, đạo, dâm, cả ba hạnh đã được viên-mãn, nếu mắc phải đại vọng ngữ,
thì Tam-ma-địa không được thanh-tịnh, thành giống ma ái-kiến và mất
giống Như-Lai.

Đây là sự thành tựu rất khó có được . Anh xem
trong cái giới căn bản, không sát -sanh, không tà -dâm, không thâu đạo,
họ đều đã tu thanh-tịnh . Rất khó, nhưng họ phạm vào đại vọng ngữ . Có
lẽ các đồng tu hỏi: "ba đều phía trước đã thanh tịnh, có thể là, một
loại là vô ý, một loại là có ý, đều tạo thành sự chướng ngại rất nặng,
làm chướng ngại anh ra không khỏi Tam giới".

Chúng ta xem đoạn Kinh-Văn phía dưới:

"Tức như chưa được gọi rằng được, chưa chứng gọi rằng chứng", (đây gọi là
đại vọng ngữ, cái chưa được mà tưởng đã được, chưa chứng mà tưởng là đã
chứng). Ví dụ như nói khai ngộ, rõ ràng là chưa khai ngộ tự cho là đã
khai ngộ . Đây là đại vọng ngữ . Trong Tịnh-Độ chúng ta, chưa được nhứt
tâm nói với người khác tôi được nhứt tâm. Đây cũng gọi là đại vọng ngữ .
Mục đích của đại vọng ngữ là ở chỗ nào ? Nói một cách thật tại, cùng
với phía trước ít nhiều cũng có quan hệ, đều có một ít liên-quan. Nói
một cách khác, phía trước ba thứ tuy đã cạn dứt, nhưng đoạn chưa sạch .
Điều quan trọng nhứt là Tham-sân-si, phía dưới còn có cái mạn: "ngạo
mạn!" Cái ngạo mạn phiền não rất nặng . Mục -đích này là tăng trưởng tâm
thâu đạo, ngạo mạn đang cản trở, thì tam muội của họ làm sao thanh tịnh
được ? Hiển nhiên là thật sự chẳng được chứng đắc . Người càng có đạo
tâm thật sự, chứng quả thật sự, ngượi lại tỏ ra khiêm tốn, họ không thừa
nhận (mình đã chứng quả). Kẻ chưa chứng quả thì lại khoe khang chính
mình .

Chúng ta đọc luôn phần dưới:

"Hoặc để cầu thế gian tôn trọng tột bực, bảo người khác rằng nay tôi đã được quả
Tu-đà-hoàn, quả Tu-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, Bích-chi Phật
thừa, thập địa đại tiền chư vị Bồ-Tát; đây là quả báo của Đại-thừa, họ
bảo đã chứng được rồi, trông mong người kia lễ sám, tham dự cúng dường".

Những hạng này cũng là ma, gọi là Ái -kiến ma, chúng ta cũng thường phát hiện
được . Xuất gia hay tại gia đều có . Tại gia cũng có người hoằng pháp
lợi sanh. Cũng có tự xưng là Thiện -Trí -Thức, cũng có để tâm gạt người,
như trong kinh chỗ nói: "Tham đồ cung kính cúng dường, cũng có người vô
ý lầm mình đã chứng đắc . Đó chẳng phải gạt người nhưng cũng có lỗi .
Tự họ không thể thành tựu .

Hoà-Thượng Tịnh-Không kể:

Đại khái vao 20 năm trước, tôi gặp được một vị nữ đồng tu tại gia. Bà bảo:

-Thưa Thầy, tôi đã chứng quả A-la-hán rồi .

Tôi nghe qua liền lắc đầu . Vả lại bà ta nói một cách rất thật tình:

-Quả tôi đã chứng được quả A-la-hán!

Tôi biết bà ta đã lầm lẫn . Vì vậy nên tôi đã nghĩ ra. Chứng được A-la-hán thì sáu thứ thần thông liền hiện tiền .

Lúc đó tôi ở nhà ba ta. Cửa sổ đóng kín, phía ngoài nhà bà ta đường lộ, tôi mới hỏi ba ta rằng:

-Bên ngoài đường và xe cộ đi lại, bà có thấy được không ?

Bà ta nói không thấy .

Tôi liền nói:

-Vậy bà không có thiên nhãn thông.

Sơ quả Tu-đà-hoàn thì được thiên-nhãn thông, thiên-nhĩ thông, hai thần
thông này có được . Nhị quả Tu-đà-hàm thì được Tha-Tâm-thông. Kẻ khác
khởi tâm động niệm ta liền biết được .

Tôi hỏi bà ta:

-Tôi đang nghĩ một việc, bà có biết tôi nghĩ gì không ?

Bà ta nói:

-Tôi không biết!

Tôi nói:

-Vậy bà chưa đắc A-la-hán . Bà chẳng những không đắc quả A-la-hán, nên đến Tiểu-thừa Tu-đà-hoàn bà cũng chưa chứng được .

Như vậy bà ta mới phục . Bà ta vốn hiểu lầm, chứ chẳng phải gạt tôi. Bà tự
mình đã ngộ nhận . Thực tế mà nói, trong khi tu hành được một tí ti
khinh an tự tại, phiền não nhẹ thì tự cho mình đã chứng quả A-la-hán .

Đây là hiểu lầm, chúng ta nên đem nó giải trừ .

Lại còn có một lần nữa, khi tôi đang giảng kinh tại Los Angeles, có năm
chàng thanh-niên, nghe nói có một vị Lạt-ma Tông chứng minh cho họ là họ
đã khai ngộ .

Họ đến nghe tôi giảng. Sau khi nghe giảng xong
có ba người đến yêu cầu tôi chứng minh là họ đã khai ngộ. Tôi nói không
có. Họ rất giận . Họ nói:

-Lạt-ma cũng nói chúng tôi đã khai ngộ. Tại sao Thầy nói chúng tôi chưa khai ngộ ?

Tôi bèn nói với họ:

-Tôi chưa khai ngộ, ông đến hỏi tôi, vậy ông nhứt định chưa khai ngộ . Nếu ông đã khai ngộ sao còn đến hỏi tôi ?

Ôi!Xã-hội hiện nay thất quá loạn! Yêu ma quỷ quái chỗ nào cũng có. Chúng
ta phải lưu ý cẩn thận. Không thể để bị gạt. Không thể để bị người lừa
dối. Đầu óc của mình phải sáng suốt. Tuyệt đối không thể tham đồ danh
lợi, tương lai sẽ đoạ lạc Tam đồ, thì sẽ khổ không thể tả. Cho nên chúng
ta phải biết lợi hại .

Trước mặt tuy có một chút lợi nhỏ, nhưng tội báo sau đó thì ghê gớm lắm .

Phật nói đây là nhứt-điên-ca. Nhứt-điên-ca là đoạn thiện căn. Con người
không có thiện căn, tiêu diệt hột giống Phật. Như người lấy dao chặt cây
đa-la, tức là cây bối-đa-la, một loại cây ở Ấn-Độ, sanh trưởng ở miền
nhiệt đới. Cây này bị chặt đứt thì không mọc trở lại. Phật dùng cây này
làm tỷ dụ. Phật ấn ký cho người ấy mất hẳn thiện căn, không còn
chánh-tri-kiến, đắm trong ba bể khổ, không thành tựu pháp Tam-muội.

Phàm là người phạm đại vọng ngữ, định không thể thành tựu; phiền não, tập
khí của họ, nhứt định rất nặng tâm sân hận rất mạnh, tâm báo thù nặng .
Gặp những hạng người này, họ tuy xưng là Thiện-Tri-Thức, tuy có tín-đồ
rất nhiều, chúng ta đối với họ nên kính nhi viễn chi.

Xin xem tiếp Kinh-Văn dưới đây:

Sau khi ta diệt đồ rồi, ta bảo các hàng Bồ-Tát và A-la-hán hiện ra ứng
thân, sanh trong đời mạt pháp kia, hiện ra nhiều hình tướng khác nhau,
để độ những người còn trong vòng luân hồi .

Hoà-Thượng nói: Như vậy trong thời này có Bồ-Tát A-la-hán hiện ra không ? Xin thưa rằng có .
Thật có, giả cũng có, chẳng ít . Những vị Phật, Bồ-Tát vẫn đang ở trong
dân gian chúng ta. Phật dặn dò họ phải độ những chúng sanh khổ nhứt
trong thời mạt pháp . Kinh dạy tiếp:

Hoặc làm Sa-môn (người xuất gia), bạch y cư sĩ (hiện tướng tại gia), vua-chúa, quan lại (tức
Bồ-Tát A-la-hán thị hiện làm vua, quan), đồng nam, đồng nữ (như phẩm Phổ
môn nói ứng hiện thân gì thì hiện thân đó, ở thế gian này cùng với
chúng sanh hoà vang đồng trần . Họ dùng phương tiện thiện xảo để độ hoá
chúng sanh) như thế cho đến người dâm nữ, quả phụ, người gian dối trộm
cắp (những hạng người mà người thế gian chúng ta cho là hạng không tốt
cũng có Phật Bồ-Tát thị hiện ở bên trong. Tại vì sao ? Vì trong chúng
sanh này người tạo tội rất nhiều . Bồ-Tát ứng hiện trong đó độ hoá cho
những người này, khuyên những người này quay đầu trở lại bến bờ) cùng
với những người đồng sự khen ngợi Phật thừa, khiến cho thân tâm của họ
vào được Tam-ma-địa, nhưng rốt ráo không tự bảo rằng tôi thật là Bồ-Tát,
thật là A-la-hán, khinh xuất nói với những người chưa học, làm tiết lậu
mật nhân của Phật, chỉ trừ đến lúc lâm chung, hoặc chăng, thầm có lời
di-chúc; làm sao, lại còn có lừa gạt chúng sanh, thành tội đại vọng ngữ .
(Nói một cách khác Bồ-Tát, A-la-hán ứng hoá tại thế gian, nhưng họ
không chịu nói rõ . Chúng ta cùng quý vị Bồ -Tát này ở chung một nơi,
nhưng cũng không biết họ).

Tại Trung Quốc chúng ta, trong lịch sử có ghi: "Vĩnh-Minh Diên-Thọ Đại sư là A-Di-Đà Phật tái lai. Là thân
phận người xuất gia, trong kinh gọi là Sa-môn. Phong Cang Hoà-Thượng
xuất hiện từ chùa Quốc Thanh, Thiện-Đạo Đại sư. Ba vị này chúng ta đều
biết là A-Di-Đà Phật tái lai. Thân phận vừa bị tiết lộ là họ đi liền .
Nhưn Vĩnh -Minh Đại Sư, sự-thị-hiện của Ngài Vĩnh-Minh thật bất-khả tự
nghị".

VĨNH-MINH ĐẠI SƯ

Trước khi chưa xuất gia, Ngài là viên-chức nhỏ của một cơ-quan
chánh-phủ, coi ngó về thu chi tài chánh. Ngài phạm giới thâu đạo. Ngài
ăn cắp tiền ngân khố quốc gia đem phóng sanh. Ăn cắp khá nhiều tiền,
phóng sanh rất nhiều sanh mạng . Sau này bị điều tra ra, Ngài thật thà
nhận hết tối . Ngài không vọng ngữ, nhận là tội ăn cắp đấy là đem phóng
sanh sạch hết . Cho nên phán quan phán tội Ngài là "tội phóng sanh". Chỉ
còn đem báo cáo tội này lên đức Vua. Vua nghe qua cũng thấy tức cười,
phán rằng "người này thật là ngu si". Biết rằng lấy trộm tiền quốc gia
là phải bị chặt đầu . Ngài không sợ chặt đầu . Ngài chỉ muốn phóng sanh.
Đức Vua theo luật pháp hạ lịnh trảm thủ, đưa ra pháp trường để hành
hình .

Đức Vua dặn dò quan giám trảm, giao phó ông ta, "nếu ông
ta sợ thì giết ngay, nếu ông ta không sợ thì thả đem ông ta về, bảo ông
ấy đến gặp ta". Khi ở pháp trường sắc diện ông không thấy đổi . Tên
quan hỏi:

-Ông có sợ không ?

Đáp:

-Không sợ!

Hỏi:

-Tại sao không sợ ?

Đáp:

-Một mạng tôi cứu được muôn ngàn tánh mạng . Rất đáng giá .

Chẳng những không sợ, mà còn lại rất vui mừng, cho nên quan giám-trảm báo cáo
lại Vua, vua cho đem ông ta về, và gặp Ngài rất vui vẻ; hỏi Ngài muốn
làm cái gì ? Ngài nói muốn xuất gia. Đức Vua liền thành tựu cho Ngài.
Đức Vua làm họ pháp cho Ngài. Về sau Ngài làm Quốc-sư, thầy của Vua.


một hôm vua tu phước, cúng trai Tăng một ngàn vị trong đại hội Vô giá,
tức là cúng dường bình đẳng. Chỉ cần là người xuất gia đến ứng cúng, Vua
sẽ đối đãi bình-đẳng. Tuy gọi là bình-đẳng cúng dường, nhưng bày biện
bàn ghế phải có một chủ toạ. Ghế thượng toạ ai cũng chẳng chịu ngồi. Mỗi
người đều khiêm tốn nhường nhau. Dĩ-nhiên mọi người tôn trọng Vĩnh-Minh
Đại-sư, vì Ngài là thầy của Vua. Họ muốn dành ghế chủ-toạ cho Ngài
ngồi, nhưng Ngài Vĩnh-Minh lại khiêm-tốn không ngồi. Đang mời qua, mời
lại nhường nhau, thì thình lình một Hoà-Thượng đến, một Hoà-Thượng ăn
mặc rách rưới lôi thôi. Thấy ai cũng nhường nhau, ông ta không k hách
sáo nhảy lên ghế thủ-tịch ngồi. Ông ta vừa ngồi xuống đức Vua cảm thấy
khó chịu, nhưng đây là Đại Hội bình-đẳng nên nói không được, trong lòng
không vui.

Sau buổi trai Tăng, mọi người về hết, Vua bèn hỏi Vĩnh-Minh Đại-sư:

-Hôm nay trẫm trai Tăng có Thánh Hiền ứng cúng chăng ? Nếu có Thánh Hiền ứng cúng, thì phước báu trẫm sẽ lớn .

Vĩnh-Minh Đại-sư đáp:

-Thưa có .

Vua hỏi ai vậy ? Đại-sư đáp:

-Là Định Quang Cổ Phật hôm ấy đến ứng cúng .

-Là người nào vậy ?

-Là vị Hoà-Thượng ngồi trên ghế thủ-tịch .

Đức Vua lòng thấy rất vui mừng, tức tốc phái người đi tìm. Vị Hoà-Thượng
này lổ tai rất lớn, không biết là tên gì ? Người ta gọi Ngài là Đại nhĩ
Hoà-Thượng. Vua phái người đi khắp nơi, sau cùng biết được ông ta dạy tu
trong một sơn động. Sau khi tìm được, mọi người đảnh lễ mời ông ta về
Hoàng Cung để cúng dường. Vị lão Hoà-Thượng này nói một câu:

-Di Đà nhiễu thiệt! (có nghĩa là A-Di-Đà Phật nhiều chuyện, đem thân phận của ta thố lộ).

Nói xong vị Hoà-Thượng liền viên-tịch .

Mọi người nhìn thấy đều ngơ ngẩn .

Định
Quang Cổ Phật tìm được rồi, nhưng Phật đã viên-tịch . Nghĩ đến câu Ngài
nói: "Di Đà nhiễu thiệt". Có nghĩa Vĩnh-Minh Đại-sư là hóa thân của
A-Di-Đà Phật . Vị quan đi tìm Định Quang Cổ Phật liền nghĩ, vẫn còn kịp
ta phải lập tức về báo cáo, Vĩnh-Minh Đại-sư là A-Di-Đà Phật .

Vua nghe báo cáo Định Quang Cổ Phật đã viên-tịch vô cùng thất vọng . Nhưng
nghe báo cáo tiếp, Vĩnh-Minh Đại-sư là A-Di-Đà Phật; Vua quá đỗi vui
mừng, lập tức đến gặp Vĩnh-Minh Đại-sư.

Vua ba chân, bốn cẳng đi để mong sớm được gặp . Nhưng vừa đến cửa, suýt tí nữa đụng phải một tên lính . Vua mới hỏi hắn:

-Việc gì mà nhà ngươi hoảng hốt như vậy ?

Tên lính lắp vắp đáp:

-Bẩm Vĩnh-Minh Đại-sư đã viên-tịch rồi!

Nhơn đây Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng: "Đây là quy tắc của Phật môn. Thân
phận vừa tiết lộ, thì lập tức phải ra đi. Thân phận đã lộ mà vẫn chưa
đi, đó tức là lừa người . Lừa người cung kính, lừa người cúng dường .
Những công án này, tại Trung Quốc rất nhiều". Thân phận đã lộ thì lập
tức phải ra đi. Anh tìm lại cũng chẳng có .

Vĩnh-Minh Đại-sư là
một thí dụ. Phong Cang Hoà-Thượng cũng vậy. Hàn Sơn, Thập Đắc, quý vị
đã biết đó là Văn Thù, Phổ-Hiền Bồ-Tát; thân phận đã lộ thì tìm không ra
nữa, biệt mất tích .

ẤN-QUANG ĐẠI SƯ

Vào năm Dân Quốc, tại núi Linh-Nghiêm có Ấn-Quang Đại-Sư, là
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tái lai. Thân-phận của Ngài làm sao lộ ra ? Trong
sách Vĩnh Tư Tập của Ấn-Quang Đại-Sư có một bài văn. Quý vị xem kỹ lại
thì hiểu rõ . Sự việc này, vào lúc tuổi già, ở Thượng Hải, Ngài tổ-chức
một hội Hộ-Quốc Tức Tai Pháp Hội . Lời pháp ngữ khai thị của Ngài tại
Pháp Hội, lưu thông rất rộng. Quý vị đều có thể xem được. Pháp HỘi kéo
dài 8 ngày. Ngài đến chủ trì Pháp Hội này. Lúc ấy ở tỉnh Giang-Tô có một
học-sinh nhỏ học Trung-học, không tin Phật-giáo. Em này ban đêm nằm
mộng thấy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát nói với cô gái rằng:

-Cô cùng Bồ-Tát Đại-Thế-Chí có duyên. Đại-Thế-Chí Bồ-Tát đang hoằng pháp tại Thượng -Hải . Cô phải đến đó gặp Ngài .

Cô mới hỏi:

-Đại-Thế-Chí là ai ? Tôi làm sao tìm được ?

Bồ-Tát mới nói:

-Là Ấn-Quang Pháp sư đó .

Hôm sau cô gái tỉnh dậy, cảm thấy giấc mộng này rất lạ lùng. Vì cô là người
không đạo Phật, cũng không biết Quán-Thế-Âm, cũng chưa từng nghe qua
tên của Đại-Thế-Chí Bồ-Tát . Cho nên cô ta đi khắp nơi nghe ngóng, hỏi
thăm. Nghe ngóng rất lâu vì lúc đó dân quê không biết Đại-Thế-Chí
Bồ-Tát. Qua một thời gian rất lâu, cô gặp được một người bà con, người
này học Phật, nói cho biết: "Đại-Thế-Chí Bồ-Tát là một vị trong
Tây-Phương Tam-Thánh". Qua một thời gian rất lâu, được biết có một vị
tên Ấn-Quang Pháp sư hiện đang ở Thượng-Hải chủ trì Hộ Quốc Tức Tai Pháp
Hôi. Cho nên cả nhà hân hoan mừng rỡ đến Thượng-Hải bái kiến Ấn-Quang
Hoà-Thượng. Cô đem câu chuyện trong mộng tường-tận kể lễ lại cho
Hoà-Thượng . Lão Hoà-Thượng nghe xong, nét mặt nghiêm nghị dạy cô ta một
trận . Ngài bảo: "Không được nói bậy! Nếu mi còn nói bậy nữa, thì
vĩnh-viễn đừng đến gặp ta nữa". Vả lại Quán-Thế-Âm Bồ-Tát trong giấc
mộng còn nói với cô ta: "Đại-Thế-Chí Bồ-Tát qua bốn năm nữa thì
viên-tịch".

Thế rồi, cô ta quy y với Ấn -Quang Đại -sư. Sau bốn
năm quả nhiên Ấn -Quang Pháp -sư viên-tịch . Cô ta mới đem sự việc này
công bố ra, mọi người mới biết Ấn -Quang Đại -sư là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát
tái lai.

Anh xem, có người biết được họ, biết được chỉ vài
người, tuyệt đối cấm chỉ không tuyên dương. Không giống như người hiện
nay. Ở Mỹ, tôi nghe có người xưng là Văn-Thù Bồ-Tát tái lai, đi khắp nơi
tuyên-truyền mà họ không ra đi... Lại có người xưng là Phật gì đó tái
lai, vì Bồ-Tát chưa đủ lớn . Điều này chúng ta phải hiểu rõ .

Vậy thì hãy xem các vị Tổ của Tịnh-Độ Tông, như Liên-Trì Đại-sư, Ngẫu-Ích
Đại-sư. Thân phận của họ không tiết lộ. Tuy không tiết lộ, nhưng trong
tưởng tượng của chúng ta, họ chẳng phải là người thường .

NGẪU-ÍCH ĐẠI SƯ

Anh xem Ngẫu-Ích Đại-sư tức Trí-Húc trứ tác cuốn Kinh A-Di-Đà
Yếu-Giải . Trứ Tác này của Ngài trong chín ngày viết xong. Ấn-Quang
Đại-sư đối với quyển chú giải này tán-thán: "Dù cho Cổ Phật tái lai để
viết chú giải cho Kinh A-Di-Đà cũng không thể vượt hơn cuốn này". Vậy
chúng ta biết được Ấn-Quang Đại sư là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, mà còn tán
thán Ngẫu-Ích Đại-sư như vậy, thì Ngẫu-Ích Đại-sư không phải là Phật
A-Di-Đà tái lai, thì cũng là Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tái lai. Đây là chúng ta
căn cứ vào câu nói này của Ngài Ấn-Quang mà suy ra. Nếu không phải là
Phật hay Bồ-Tát tái lai thì tuyệt đối không thể được .

Vào thời Mạt Pháp này, nếu chẳng phải Phật, Bồ-Tát giúp chúng ta một tay, thì
cái duyên phần được độ của chúng ta không còn nữa .

Năm đầu Dân Quốc xuất hiện một vị Hạ-Liên-Cư Cư sĩ. Thân phận của vị cư sĩ này
không tiết lộ. Nhưng Ngài có nhiều tướng lành bất khả tư nghị .

Chúng ta đã thấy tấm hình chúng tôi in trên quyển kinh. Trong tấm hình ấy có
những hiện tượng, quý vị hãy xem cho kỹ để có thể phát hiện .

Phía trên đầu tấm hình có một bức tượng Phật, dưới đôi giày phóng quang.
Thật bất khả tư nghị. Năm trước tôi giảng Kinh tại Miami. Nơi này có rất
nhiều người kỳ quái lạ lùng. Như chúng ta thường hay nói là thần thông,
có thiên nhãn và tha tâm thông. Những người này rất là nhiều. Có nhiều
người là người ngoại quốc. Trong số ngoại quốc này có nhiều người không
phải là Phật-giáo đồ, họ có thần thông và khả năng đặc thù. Đó là một
nơi rất quái lạ có nhiều kỳ nhơn. Trước khi tôi chưa đến Miami.
Tăng-Hiến-Vỹ Cư-sĩ đem tấm hình của lão Cư-sĩ Hạ-Liên-Cư cho mấy người
này xem. Ông Tăng-Hiến-Vỹ cũng thích thần thông, cũng thích hiếu kỳ, thử
mấy người xem thần thông của họ là thật hay giả; bảo họ xem tấm hình,
coi người này thế nào ? Người ngoại quốc đó mới nói: "Người này toàn
thân trong suốt". Ông Tăng-Hiến-Vỹ nghe xong lấy làm lạ lùng, chỉ xem
hình chứ không thấy người, mà nói "thân hình trong suốt" và nói với ông
ta: "Đó là vị Bồ-Tát tái lai". Họ còn nói với Tăng-Hiến-Vỹ: "Người này
không còn ở trên thế gian này nữa, đã viên-tịch mất rồi . Khi người này
còn tại thế thì cũng chẳng nổi tiếng".

(Ở trên đây, Hoà-Thượng Tịnh-Không nói về một cuốn Kinh Vô Lượng Thọ do lão cư-sĩ Hạ-Liên-Cư chú
giải . Sách có hình bìa của cư-sĩ Hạ-Liên-Cư, mà một người ngoại-quốc ở
Miami xem hình nói rằng "Đây là Bồ-Tát tái thế" Ngài Tịnh-Không nói
tiếp về cuốn sách của lão cư-sĩ Hạ-Liên-Cư).

Đây là bản hoàn-hảo nhứt của Kinh Vô Lượng Thọ. Bản này vừa tung ra mọi người xem
thấy đều sanh tâm hoan-hỉ. Đối với sự tín-ngưỡng tu học của Tịnh Tông và
sự vãng sanh chúng tôi thấy được rất nhiều người. Đây là lão cư-sĩ
Hạ-Liên-cư trao tặng cho chúng ta.

Bản này vừa tung ra, lúc đó có nhiều người có thành-kiến rất nặng, không dễ dàng tiếp nạp . Cho nên
số lượng sách lưu-thông vô cùng ít ỏi . Có rất nhiều người không biết có
bản này. Lão cư-sĩ Lý-Bính-Nam ở Đài-Trung sau khi vãng sanh, tôi đem
bản này in ra, lưu thông để làm quà kỷ-niệm Ngài, nguyện cho Ngài được
Thượng Phẩm Thượng Sanh.

Bản này vừa tung ra, rất nhiều người thấy được sanh lòng hoan-hỉ, yêu cầu tôi giảng bộ kinh này. Thế nên ở
trong nước bắt đầu giảng bộ kinh này. Rồi ở nước ngoài bắt đầu giảng. Từ
khi bộ kinh này tung ra đã bảy năm rồi . Bảy năm là một thời gian rất
ngắn. Bộ kinh này đã được lưu thông đến toàn thế giới. Bộ kinh này về số
lượng ấn-loát của nó, tôi không có cách chi tính chính xác. Bởi vì
ngoài tôi in ra, còn có rất nhiều người cũng in. Tôi xin đại lược thống
kê, ít lắm số lượng cũng vượt qua hơn 3 triệu cuốn. Trong thời gian bảy
năm mà có số lượng lớn như vậy, lưu thông đến toàn thế giới, nếu chẳng
phải bản nguyện oai thân gia trì của mười phương chư Phật Như-Lai, thì
tuyệt đối không thể làm được. Lão cư-sĩ Hạ-Liên-Cư cũng là bất-khả
tư-nghị, tuyệt đối chảng phải là người phàm; nhứt định là Phật, Bồ-Tát
tái lai.

Điều này nói rõ, Phật, Bồ-Tát thật sự có xuất hiện trên thế gian, quyết không chịu thố lộ thân phận . Đây là thật có . Nếu
tôi nói mình là A-la-Hán, là Bồ-Tát là khai ngộ là đắc quả, nói rồi mà
chẳng chịu đi, là thứ giả . Duy chỉ, trừ lúc lâm chung, thầm có những
lời di-chúc như Định Quang Cổ Phật, Vĩnh-Minh Diên Thọ vừa nói ra liền
đi ngay. Điều này thì được, Phật cho phép . Nói rồi mà không đi là Phật
cấm chỉ .

Kinh tiếp:

... Làm sao, người này lại còn lừa gạt chúng sanh, thành tội đại vọng ngữ . Ông dạy người đời tu pháp
Tam-ma-địa, sau rốt lại đoạn trừ các đại vọng ngữ . Ấy là lời dạy thanh
tịnh rõ ràng quyết định thư tư, của các đức Như-Lai Tiên Phật Thế-Tôn.

Đây là bốn trọng giới đến đây đều giảng rõ ràng .

Bốn điều này mười phương tất cả Như-Lai dạy bảo chúng sanh tu Tam-ma-địa
nhứt định phải tuân thủ, phải tu cho được thanh-tịnh, trong sạch thì
Tam-ma-địa mới thật sự đạt được .

Tam-ma-địa này đối với người niệm Phật mà nói, là Niệm Phật Tam-muội, tức là Nhứt Tâm Bất Loạn .

Kinh-Văn tiếp:

Vậy
nên ông A-Nan, nếu không đoạn trừ lòng đại vọng ngữ thì cũng như khắc
phân người làm thành cây chiên-đàn, mà muốn được hương thơm thật không
có lẽ nào như vậy .

Đây Phật cử thêm một thí dụ, không đoạn đại
vọng ngữ, giống như người khắc phân người, phân người là loại hôi thúi,
chiên-đàn là loại hương thơm nhứt; mùi nó thơm, nhưng phân người làm
sao có mùi thơm bay ra được ? Quyết-định không có đạo lý này .

Kinh Văn:

Ta dạy hàng Tỳ Kheo lấy trực tâm làm đạo tràng, trong hết thảy hành động
nơi trong bốn oai-nghi, còn không có giả dối, thì làm sao có thể pham
đại vọng ngữ . (Tự mình tuyên xưng với kẻ khác rằng mình đã tu hành
chứng quả . Điều này quyết định không cho phép). Ví như người dân nghèo
xưng càn là Đế -vương, để tự chuốc lấy sự tru diệt, huống nữa là vị pháp
vương, làm sao dám xưng càn ? Trong pháp thế gian, nếu là một người dân
nghèo, mạo xưng là Quốc -Vương vào thời xưa là bị tử tội, hình phạt
hiện nay cùng với trước kia khác nhau. Trước kia là tử -hình . Khi anh
mạo xưng Đế -Vương mà còn có tội lớn như vậy . Còn Phật là Pháp vương
(vua Pháp), Bồ-Tát là Pháp-Vương-tử, anh sao có thể mạo xưng được ? Sao
có thể đặt điều mê hoặc chúng sanh! Nhơn địa không đạt, quả báo ắt quan
co! Hai câu nói này, có thể nói là tổng kết của bốn thứ dạy bảo thanh
tịnh rõ ràng . Chúng ta muốn chứng quả, nhứt định phải tu chánh nhơn.
Nếu chẳng phải cái nhơn chơn thật, nhứt định không được cái quả chơn
thật .

Điều mà chúng ta mong cầu là Vô-Thượng Bồ-Đề . Chúng ta
mong cầu là Niệm Phật Tam-muội . Muốn đạt được thì tâm phải ngay thẳng,
hành ngay thẳng, mới có thể đạt được .

Kinh tiếp:

"Cầu đạo Bồ-Đề của Phật, như người muốn cắn rún, làm sao mà thành tựu được"?
Đây là nói nhơn quả đi ngược với nhau. Ác nhơn muốn cầu thiện quả, nhứt
định không đạt được, cũng như người muốn cắn rún mình, thì cắn không
được . Đây là việc không thể làm được .

Nếu như các hàng Tỳ kheo, tâm như dây đàn thẳng, tất cả đều chơn thật mà vào Tam-ma-địa, thì
hẳn không có các ma-sự, ta ấn-chứng người đó, thành tựu được Vô-thượng
tri-giác của các hàng Bồ-Tát . Mấy câu nói này là lời dạy bảo tối quan
trọng trong tổng-kết, chúng ta phải ghi nhớ thật kỹ . Đặc biệt hơn hết
là Xã-hội hiện tai. Trong Kinh Lăng Nghiêm có chỗ nói: "Tà sư nói pháp
như cát sông Hằng". Tà sư là gì ? Tức là chỗ nói yêu ma quỷ quái . Chúng
nó ở đâu ? Trà trộn trong Phật môn chúng ta, làm cho hoa mắt chúng ta.

Phật, Ma đều không phân biệt thì phiền phức lớn . Chúng ta có lòng học Phật, lại học với Ma. Điều này oan uổng lắm!

LÀM THẾ NÀO KHÔNG GẶP MA NẠN ?

Ở đây, Phật dạy chúng ta một nguyên tắc . Nhứt thiết chơn thật thì
anh không gặp nạn Ma. Do đây có thể biết, sở dĩ tất cả Ma có thể làm
nhiều loạn anh, gạt gẫm anh; có thể khống chế anh, có thể đặt để anh, vì
tâm anh không chân thật .

Đọc đến câu khai thị này của Phật .
Nói một cách thật tại, gặp phải Ma nạn; chúng ta cũng không thể trách Ma
được . Vẫn phải trách tự mình . Tâm của ta không chơn không thật, mới
có thể bị người ta gạt .

Tự mình thực tình học Phật, trực tâm học Phật, nhứt định không gặp nạn Ma. Ma dầu có thần thông lớn hơn đi
nữa, có khả năng lớn hơn đi nữa, chẳng thể làm anh nao núng; cũng chẳng
làm động anh phân hào nào cả . Cho nên, gặp phải nạn Ma là vì tâm anh
không chơn thật . Chính tâm anh có vọng tưởng .

Nói một cách khác, trong tâm anh cũng vẫn có Sát - Đạo - Dâm - Vọng! Những cái niệm
này của anh chưa đoạn dứt, tâm không trong sạch, đây mới dễ gặp phải Ma.
Ma là làm những việc này . Lấy đây làm Phật sự, hoà điệu tiết tấu nhịp
nhàng thì bị mắc lừa nằng nề . Điều này là sự khai thị vô cùng quan
trọng .

Đây là trung tâm của bốn đoạn Kinh Văn này:

"Như lời ta nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của Ma Ba-tuần".

Sau cùng Phật dạy ta phân-biệt giữa Phật và Ma. Nếu chúng ta gặp được một
Thiện -Tri-Thức, gặp được một đạo hữu đồng tham. Lời họ nói cùng lời
Phật nói giống nhau, nhứt định phải đoạn Sát - Đạo - Dâm - Vọng . Đây là
Phật nói . Nếu như nói không đoạn Dâm, Sát, Đạo, Vọng có thể thành tựu
đạo Vô-Thượng . Đây là Ma nói, chứ không phải Phật nói .

Đoạn sau đây là tổng-kết: "A-Nan ông hỏi cách nhiếp trì tâm-niệm thì tôi đã
nói rằng: Người muốn vào Tam-ma-địa, tu học Pháp môn nhiệm mầu cầu đạo
Bồ-Tát, trước hết cần giữ bốn thú luật nghi đó trong sáng như giá, như
sương."

Những lời nói này rất dễ hiểu . A-Nan, hỏi phải làm sao
nhiếp tâm ? Ở chỗ này Phật vì ta nói ra: "Chơn chánh nhiếp tâm", muốn
có được định, muốn tu học thành tựu, bốn trọng giới này phải trì cho
được hết sức thanh-tịnh . Phía trước đã nói qua, không những trên sự
không phạm, trong tâm cái niệm cũng chẳng sân; khi anh có thể đem giới
luật thì được thanh tịnh như vậy (Kinh Văn) tự không thể sanh ra tất cả
nhành lá; ba ý-nghiệp, bốn khẩu -nghiệp (tâm là tham sân-si, miệng thì
vọng-ngữ, kỹ-ngữ, ác khẩu gọi là ba ý-nghiệp, bốn khẩu nghiệp ác) chắc
không còn có nhân mà sanh được . Nếu còn có sanh nhứt dịnh phải có nhân.
Vậy nhân gì ? Là ý niệm không trong sạch, tức là giới tâm không thanh
tịnh mới có những sự việc này (Kinh Văn) A-Nan, nếu giữ bốn việc như vậy
không thiếu sót (Đó là Phật nói tứ trọng giới này, anh thật sự làm
được, làm được một cách rất thanh tịnh) Nếu tâm không duyên với sắc,
thanh, hương, vị, xúc; anh đối với thế gian ngũ dục, lục trần, danh văn,
lợi dưỡng; tất cả đều buông xuống, tất cả đều xã bỏ hết - Không duyên
tức là buông xuống, là xã bỏ - đây là chơn thanh tịnh, tất cả ma sự làm
sao mà phát sanh được ? Ma không có cách chi tiêm nhiễm anh, không có
cách chi ràng buộc anh, đây là tánh đức của bản thân anh phóng quang, Ma
không thể gần anh được; huống chi bên ngoài có chư Phật hộ niệm, Long
Thiên ủng hộ, có nhiều thần Hộ-Pháp bảo vệ anh, tất cả những yêu ma quỷ
quái phải rời anh thật xa. TRên con đường Bồ-Đề, anh nhứt-định thuận
buồm xuôi gió, bình an thành tựu đạo Vô-Thượng .

Đại Phật Đảnh Thủ -Lăng-Nghiêm Kinh, Thanh-Tịnh Minh Hối Chương giới Thiệu tới đây viên mãn . A-Di-Đà Phật .

Lời của Tịnh -Hải:

Sách này mang tựa đề là "Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh".
Trên đây Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng: "Trong bốn giới Tâm Sát-Đạo,
Dâm-Vọng, mười phương tất cả Như-Lai dạy bảo chúng sanh tu Tam-ma-địa
nhứt định phải tuân thủ, phải tu cho được thanh tịnh trong sạch, thì
Tam-ma-địa mới thật sự đạt được".

Tam-ma-địa này đối với niệm Phật mà nói là Niệm Phật Tam-muội, tức niệm Phật Nhứt Tâm Bất Loạn chắc
chắn được Vãng sanh. Đây chắc chắn sẽ được quả Thượng-Phẩm Thượng-Sanh
hay Thật Báu Trang Nghiêm Tịnh-Độ .

Đây là có ý nói, tu Thiền hay tu Tịnh đều phải được định, tức là Tam-ma-địa . Nhưng khi tu còn một
chút tâm ngạo -mạn sẽ vô cùng nguy hại . Vì nóng lòng được một quả gì
đó, chưa chứng tự khoe mình chứng, niệm Phật chưa thanh tịnh lại khoe
mình được niệm Phật Tam-muội, thì liền mang tội thâu đạo. Tội này từ
lòng "tham" mà sanh ra.

Đây là mắc vào "Ma Ái-Kiến". Vậy người
tu niệm Phật cầu Vãng Sanh Cực-Lạc phải tránh tội thâu đạo này, đừng vội
mừng khi thấy niệm Phật tâm mình có một chút gì thanh thản nhẹ nhàng,
rồi tự khoe là đã được nhứt tâm Bất loạn .

Nếu xa lìa được "đại vọng ngữ" chắc chắn sẽ được Vãng Sanh Tây-Phương Cực-Lạc .

Như đoạn kết-luận trên đây, Đức Phật nói: "Cái gì còn có nhân, có duyên là
còn có sanh. Còn sanh là còn trôi lặn trong luân-hồi sanh tử .

Chứng được VÔ-SANH PHÁP NHẪN của bậc Đại Bồ-Tát thì mới hết sanh, hết sanh
thì không còn tử. Thời mạt Pháp này, chỉ ai vãng sanh Tây Phương Cực-Lạc
mới chứng được VÔ-SANH PHÁP-NHẪN, từ đó về sau mới hết luân-hồi
luân-chuyển .

Kính thưa chư Liên Hũu,

Trong các sách vừa qua, chúng tôi đã cố -gắng tránh các danh-từ Hán -Việt để đa số Liên
Hữu đều cảm thấy thoải mái . Nhưng, trong cuốn này, đoạ tới đây hẳn có
chư Liên Hữu đã trách chúng tôi.

Đây là điều bất-đắc-dĩ, nhưng không thể làm sao hơn . Những phần vừa qua là bài giảng của Hoà-Thượng
Tịnh-Không, mà người nghe Ngài giảng lại là các tăng ni trong đó có chư
hoà-thượng, pháp-sư, thượng-toạ, đại-đức, v.v... Sỡ dĩ chúng tôi chọn
bài giảng này vì chưa có ai giảng kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, mà trình-bày "Tu
Chứng Liễu Nghĩa" của pháp môn niệm Phật một cách cao siêu như
Hoà-Thuọng Tịnh-Không.

Có thể, đọc qua lần đầu, có Liên Hữu cảm
thấy khó hiểu, nhưng đọc lại vài lần chư vị sẽ thấy dễ hiểu hơn, và cảm
thấy phần giảng giải quá hữu ích .

Năm ngoái (2001), khi chúng tôi ấn tống xong cuốn Sưu Giải, một liên hữu ở San Francisco gọi đến
than-phiền sách ấy cao quá . Chúng tôi xin vị ấy ráng đọc lại vài lần
nữa đi, rồi sẽ thấy dễ hiểu .

Năm nay (2002), vị liên hữu ấy gọi lại chúng tôi và nhìn nhận rằng, bây giờ thấy thích cuốn Sưu Giải .

Bây giờ, chúng tôi xin chư Liên Hữu nào đọc sách này, đã có ý trách móc
chúng tôi, xin chư vị ráng đọc lại vài lần sẽ hài lòng và công nhận rằng
bài giảng của Hoà-Thượng Tịnh-Không quả vô cùng hữu ích cho chúng sanh
chúng ta trong thời Mạt pháp này .




Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 8:57 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:21 am

CHƯƠNG MƯỜI: DO ĐÂU NIỆM PHẬT ĐƯỢC THÀNH PHẬT NGAY TRONG ĐỜI NHƯ PHẬT ĐÃ NÓI ?
Đây là một chương vô cùng tối quan trọng . Nó quan trọng ở câu nói của Đức Thế Tôn trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật rằng:

"Bởi vậy mà ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, hôm nay trân trọng xác quyết: "VÃNG
SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT".
(Phẩm Thứ Hai trang 30)

Và kế-tiếp theo có các câu thật quan trọng như:

"Muốn Vãng Sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ".

Và thêm câu:

"Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa . Vì ngay nơi
danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô-lượng vô-biên
công-đức, vô-lượng vô-biên diệu -dụng, vô-lượng vô-biên quang-minh,
tướng hảo, uy lực ...không thể nghĩ-bàn".

Đây là những câu đáng cho tất cả những ai là con Phật phải tìm hiểu, nghiên cứu và phụng hành .

Do chính chỗ này, vì chính chỗ này mà chúng tôi đã phát lời kêu gọi các
Giáo-Hội Phật giáo Việt-Nam nên giảng dạy Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Và
hơn một năm qua chúng tôi đã không ngừng vận động phát-động cao trào học
tập Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật .

Kết quả rât nhiều chùa ở trong và ngoài nước tìm kiếm Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật và sách Sưu Giải để nghiên cứu .

Tuy nhiên, vẫn có một số chư Tăng quá chấp cho rằng một cư-sĩ không thể làm
việc này. Thật sự chúng tôi hiểu về Phật pháp chẳng có bao nhiêu. Nhưng
điều chúng tôi hiểu về Phật A-Di-Đà và Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, chúng
tôi dám quả quyết rất nghiêm chỉnh và đúng đắn .

Nói về cư-sĩ, đọc sách này chư liên-hữu đã thấy, Pháp sự Tịnh -Không rất quí trọng
cư-sĩ Hạ-Liên-Cư và kính cư-sĩ Lý-Bỉnh-Nam như là một bực thầy. Riêng về
người Việt-Nam chúng ta, hầu hết đều kính trọng cư-sĩ Tịnh-Liên
Nghiêm-Xuân-Hồng như một bực Bồ-Tát thị-hiện đến cõi này. Chúng tôi chỉ
là một cư-sĩ tầm thường nhưng trong cuộc đời này để nuôi sống, chúng tôi
đã sống bằng cái nghề chuyên đi tìm sự thật, nên chúng tôi thường bị
cái gọi là "méo mó nghề-nghiệp" ảnh hưởng . Khi nghiêm cứu Phật -pháp,
chúng tôi thường lấy kiến phóng đại soi chiếu các lời Phật và các Tổ
dạy.

Có hai câu mà chúng tôi thường soi mói:

1. Minh Tâm Kiến Tánh thành Phật .

2. Niệm Phật thành Phật .

Chúng tôi không muốn đi sâu vào câu "Minh Tâm Kiến-Tánh Thành Phật" vì vấn-đề
này đã được trình bày rõ rệt ở sách Sưu-Giải . Theo chúng tôi, Kiến
tánh là thấy rõ Phật Tánh. Kinh nói, chúng sanh đều có Phật Tánh, trừ
bọn Nhứt Xiễn-đề. (Nhứt Xiễn -đề là những người không tin tưởng vào Phật
pháp).

Chúng sanh đều có Phật-tánh. Nhưng chỉ có hàng Đại
Bồ-Tát mới thấy được Phật Tánh và tu dần lên để thành Phật. Thời mạt
pháp này, người tu thiền định, nhập được đại định lâu vài ba tháng -
theo lời Pháp Sư Tịnh-Không giảng - chỉ có thể chứng Tứ Thiền Bát định,
vẫn chưa thể ra khỏi Tam-giới, vẫn phải chịu luân hồi sanh tử .

Bây giờ là năm 2002, năm 1912 là năm bên Tàu lật đổ nhà Thanh, đến nay là
90 năm, theo Đàm-Hư Hoà-Thượng, Tổ cuối cùng của Tông Thiên-Thai, Ngài
chưa hề nghe thấy bên Tàu có vị Thiền Sư nào đắc định tới quả "cửu
định".

Vậy thì đúng như Kinh Niệm Ba-La-Mật nói: "Thời mạt pháp này không thể chứng nhập Sơ Thiền đến Tứ Thiền".

Như vậy thì, việc "Minh Tâm Kiến Tánh thành Phật" không còn là vấn-đề tu
chứng của thời mạt pháp này . Tất cả chỉ còn là kiến-giải mà thôi .

Hoà-Thượng Tịnh-Không như trước đây đã chân thành thú nhận: "Một chút xíu chứng ngộ tôi cũng không đạt được!"

Vấn đề còn lại là "Niệm Phật thành Phật"

Do đâu niệm Phật có thể thành Phật ?

Trong sách Sưu-Giải, chúng tôi đăng tấm hình Phật Thích Ca Mâu Ni,
bên dưới có một dấu hỏi và hàng chữ "Do đâu Niệm Phật có thể thành Phật
?" Nhưng suốt cuốn sách dày 700 trang, chúng tôi chỉ nói phớt qua, chứ
không giải thích "Do đâu niệm Phật có thể thành Phật ?"

Cuối Phẩm thứ hai của Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức Phật nói:

"Diệu-Nguyệt cư-sĩ, nên biết rằng được Vãng Sanh Cực-Lạc thì không bao giờ trở lại
địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất-thối
-chuyển. Từ đó về sau thành tựu mười thứ trí lực, mười tám pháp Bất
cộng, năm nhãn, sáu thông (thần thông) vô-lượng Đà-ra-ni, vô số
Tam-muội, thần thông du hí, biến tài vô ngại ... đầy đủ bao nhiêu
công-đức vô-lậu của Đại Bồ-Tát, cho đến khi đắc quả Phật . Bởi vậy mà
ta, Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, hôm nay trân trọng xác-quyết rằng: VÃNG
SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT".

Vãng Sanh tức đống ý nghĩa với thành Phật . Đúng vậy. Nhưng chưa giải-thích
được câu hỏi của chúng tôi, Phật nói: "Vãng Sanh đồng ý-nghĩa với thành
Phật". Nhưng, do đâu Vãng Sanh Cực-Lạc có thể thành Phật ?

Vậy chư liên-hữu hãy vững một niềm tin rằng: "Khi chúng ta tu niệm Phật sẽ
được Vãng Sanh và thành Phật ngay trong đời như lời Kinh nói".

Hẳn chư liên hữu còn nhớ lời giảng của Hoà-Thượng Tịnh-Không: "Một người
Vãng Sanh Tây-Phương Cực-Lạc, đều là người còn sống mà Vãng Sanh. Khi
Phật và Thánh-chúng đến rước, thân xác của người đó vẫn còn sống. Họ
nhìn thấy Phật rõ ràng". Chư vị nào đã xem phim là cụ Triệu Vinh-Phương
đều thấy bà cụ nói với đứa cháu nội rằng:"Một ngày bà thấy Phật A-Di-Đà
ba bốn lần . Sau đó bà cụ theo Phật về Tây-Phương Cực Lạc".

Trong sách Lưu Xá -Lợi chúng tôi cũng có viết: "Người Vãng Sanh thì theo Phật
đi ngay". Như vậy, thần thức người đó theo Phật đi Vãng Sanh ngay, khi
còn sống .

Trong nhà Phật, thân xác của chúng ta được coi là cái "túi da". Cái quan-trọng là thần-thức, người thế-gian gọi linh-hồn .

Thần-thức không có hình tướng, nhưng nếu đi luân hồi thì khi nó nhập vào cái túi
da nào thì mang hình thức ấy . Mang túi heo thì làm heo, mang túi da chó
thì làm chó .

Người được vãng sanh, Tam Thánh đến tiếp-dẫn,
thần-thức liền theo Phật, Bồ-Tát đi ngay về cõi Cực-Lạc . Từ đó mang một
cái thân trong suốt, màu vàng diêm-phù-đàn là màu tử kim, đồng sắc thân
Phật và Bồ-Tát, không còn phải mang túi da nữa .

Xin hãy nghe Hoà-Thượng Tịnh-Không nói:

Trong chúng sanh có tất cả chín pháp giới . Mỗi pháp giới đều có chỗ trụ riêng biệt .

Dựa vào ý của Hoà-Thượng Tịnh-Không trong cuốn Khai Thị, chúng tôi xin
hệ-thống hoá để chư liên-hữu dễ nhớ. Chín pháp giới gồm có:

1. Bồ-Tát trụ ở cảnh giới lục độ (Ba-la-mật).

2. Duyên-Giác trụ ở nhân-duyên .

3. Thanh-Văn trụ ở Tứ Đế .

4. Ngạ quỷ trụ ở cảnh giới tham.

5. Địa -ngục trụ ở cảnh giới sân.

6. Súc sanh trụ ở cảnh giới si-mê.

7. Người trụ ở cảnh giới tình và tưởng bằng nhau.

8. A-tu-la trụ ở cảnh giới thích tranh-đấu, chiến-tranh.

9. Trời trụ ở cảnh giới thập thiện .

Nhìn vào sinh-hoạt, tánh tình một chúng sanh, người ta có thể bảo chúng sanh
ấy, sau khi chết sẽ trụ vào cảnh giới nào. Thí dụ một người sống với
tánh tham lam, thì người tu-hành có thể đoán người ấy khi chết sẽ trụ ở
cảnh giới ngạ quỷ. Một người tánh nóng nảy, sân giận sẽ trụ ở cảnh giới
địa-ngục, v.v...

VẬY CHƯ PHẬT TRỤ Ở CẢNH GIỚI NÀO ?

Chư Phật trụ ở chỗ vô trụ. Cho nên trong kinh Kim-Cang mói có câu:
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", có nghĩa là "Vì không chỗ trụ mà sanh
tâm kia", tức tâm Phật hay tâm thanh-tinh.

Chư Phật trụ ở cảnh giới vô trụ .

Hoà-Thượng Tịnh-Không nói:

-Phàm
phu chúng ta muốn trụ nơi cảnh giới vô trụ của Phật là điều không thể
đạt được . Tuy nhiên Phật có truyền dạy cho ta một phương-pháp vô cùng
thù-thắng và tiện lợi để có thể dự vào cảnh giới vô trụ của các Ngài. Đó
là Pháp môn Niệm Phật .

Ngài Tịnh-Không nhấn mạnh:

Bồ-Tát trụ ở lục độ, quí vị trụ nơi Phật trụ. Như vậy là quý vị đã được nâng cao hơn đẳng cấp Bồ-Tát .

Chữ lục độ ở trên có nghĩa là lục Ba-la-mật . Một hành giả tu Bồ-Tát đạo
như Ngài Thiện-Tài Đồng-Tử, khi đắc quả Bồ-Tát thì đạt được Ba-la-mật,
phải trải qua vô số kiếp . Nhưng hành -giả tu niệm Phật, nếu nhứt tâm
niệm Phật không ngừng nghỉ thì sẽ đạt mười thứ tâm thù thắng, sẽ đạt
được niệm Phật tam muội .

Làm sao hành giả niệm Phật có thể trụ ở chỗ vô trụ ?

Chư Phật trãi lòng đại từ, đại bi, dạy kinh Niệm Phật Ba-La-Mật,
pháp vi-diệu thù thắng đệ nhứt để cứu khắp hết thảy chúng sanh, để giúp
chúng sanh thành Phật như Phật ngay trong một đời; muốn chúng sanh có
được cái tâm chư Phật, có được cái nguyện bằng nguyện chư Phật, mau
chóng vượt qua địa-vị phàm phu và tự chứng Pháp Thân từng phần .

Nếu mỗi tiếng niệm Phật của hành giả chúng ta đều trãi lòng từ bi, lo tất
cả chúng sanh, mong sao cho tất cả chúng sanh đều đồng vãng sanh. Đây là
điều tiên quyết thứ nhứt .

Kế đến, khi niệm Phật, ta phải tập niệm với cái tâm không vọng tưởng, không phân biệt, không chấp trước .
Ba điều này làm chướng ngại bản -năng tự nhiên của mình .

Nếu chúng ta niệm Phật với tấm lòng đại từ, đại bi; niệm Phật mà tâm không
vọng tưởng, không phân biệt, không chấp trước thì tâm của chúng ta
"tương ưng với tâm Phật".

Tâm Phật là chơn tâm, bao la như hư không, tiến sâu vào khắp pháp giới để hoằng pháp độ sanh.

Nếu chúng ta niệm Phật với tấm đại từ, đại bi không vọng tưởng, không phân
biệt, không chấp trước thì chính tâm ta trụ vào cảnh giới vô trụ, tương
ưng với tâm Phật vậy .

Khi chúng ta niệm Phật tương ưng với tâm Phật thì âm ba của tiếng niệm Phật của ta hoà nhập với âm ba của chơn
tâm (của Phật), lan rộng vào hư không, tiến sâu vào khắp pháp giới; cho
dù chư Phật thuyết pháp xa xôi, bất luận nơi nào cũng nghe âm thanh niệm
Phật của ta rõ-ràng .

Một khi công phu niệm Phật của ta đắc lực rồi, thì chỉ cần một tiếng niệm Phật của chúng ta cất lên khi lâm
chung, Phật và Bồ-Tát đến tiếp dẫn ngay. Lúc ấy, chúng ta bắt đầu bước
vào cảnh giới của Phật .

Đó là "Niệm Phật thành Phật ngay trong đời".

Chúng tôi mong rằng chư liên-hữu sẽ niệm Phật với tâm đại từ, đại bi và bao
la như trên, đừng hời hợt, hẹp hòi, ích kỷ để cô phụ lời Đức Bổn-Sư dạy
như trên.

Và xin theo dõi tiếp. Kinh A-Di-Đà yếu giải, Ngài
Trí-Húc viết: "Chính ý Phật Thích-Ca muốn khuyên tất cả chúng sanh trong
ba đời cầu sanh sang đây, được thọ mạng giống như Phật chỉ một lần sanh
sang đây là thành Phật" (trang 92, kinh A-Di-Đà Yếu Giải do Bồ-Tát giới
Tuệ-Nhuận dịch).

Và câu kinh trang 96:

Lại còn đây nữa, Xá-Lợi-Phất ơi, cõi nước Cực-Lạc, chúng sanh sanh sang đây đều là
bậc bất -thối, trong có nhiều Nhất Sanh Bổ Xứ, số sanh sang đây rất
nhiều, không thể đếm mà biết được; chỉ có thể nói là nhiều vô-số
vô-lượng vô-biên".

Tóm lại, cái nghĩa thành Phật ngay trong một đời được kết lại ở dưới đây:

"Một người được vãng sanh, đã sanh sang Thế-giới Cực-Lạc ngay khi còn sống,
nhờ vào bản-nguyện, công-đức, thần-lực, Phật lực của Đức Phật A-Di-Đà .
Từ một kẻ phàm phu đầy nghiệp-ác, đáng lý nếu ở lại cõi Ta bà có thể
phải đoạ Địa-ngục, Ngạ-quỷ hay Súc-sanh; vậy khi sanh sang cõi Cực-Lạc
liền trở thành bực Bất-thối-chuyển, sống chung với bực Thánh" (Phàm
Thánh Đồng Cư). Sở dĩ bực Bất-thối-chuyển gọi là bực Thánh là vì không
còn trở lại một trong ba ngôi:

1. Vị bất-thối: Nếu là phàm phu thì được dự vào bực Thánh, chẳng rơi trở lại phàm phu.

2. Hạnh bất-thối: Nếu đã là Bồ-Tát thì chẳng đoạ xuống hành Nhị-Thừa .

3. Niệm bất-thối: Nếu đã là Bồ-Tát nhờ niệm niệm mà dứt căn bản vô minh, được vào biển Nhứt-Thiết-Trí, tức ngôi Phật Trí .

Người sanh sang tịnh Độ Cực-Lạc có một điểm đặc biệt là, sẽ bât-thối đối với
một trong ba bực, nhưng khi đã sang đó thi sẽ được tất cả ba ngôi. Vì dù
là một phàm phu sang Cực-Lạc liền dự vào hàng Bồ-tát và sẽ được Phật
Trí, tức là được cả ba ngôi Bất-Thối .

Tóm tắt rõ "Do đâu niệm Phật sẽ thành Phật ngay trong đời?"

Khi chúng ta niệm Phật tinh chuyên chắc chắn chúng ta sẽ Vãng Sanh
Tịnh-Độ Cực-Lạc lúc ấy ta còn sống, nối tiếp dự vào hàng Phàm Thánh
Đồng Cư. Phàm và Thánh đồng sống chung, dù rằng chúng ta có nhiều nghiệp
ác; nhưng nhờ vào lời nguyện của Đức Phật A-Di-Đà, nhờ vào công-đức của
Phật A-Di-Đà mà khi niệm Phật lâu ngày chúng ta nhiếp thọ được, chúng
ta mang cả những nghiệp ác theo sang nơi "Phàm Thánh Đồng Cư" sống, được
Đức Phật A-Di-Đà đồng ý trong bản-nguyện của Ngài được gọi là "Đới
Nghiệp Vãng Sanh", tức là cho phép chúng ta mang nghiệp đi Vãng Sanh.
Chúng ta sống liên tục chưa hề "chết". Chết là qua một đời khác, đầu
thai vào một đời khác. Chúng ta đến Cực-Lạc Tịnh-Độ là được ngay ba ngôi
Bất-thối. Từ đó được Phật, Bồ-Tát giảng pháp và cả chim báu, cây báu
đều nói pháp cho chúng ta nghe; kể cả ao nước của cõi Cực-Lạc cũng có
tám công-đức. Chúng ta luôn luôn sống thân cận với Phật, Bồ-Tát và khi
chúng ta đến Tịnh-Độ Cực-Lạc chúng ta đã được ngay ngôi Niệm Bất-thối
rồi.

Theo Trí-Húc Đại -Sư: "Khi đã được ở trong hàng Niệm
Bất-thối rồi, thì là đã vượt được lên trên hết 41 ngôi Bồ-Tát còn ở
địa-vị trồng nhân".

Ở các pháp môn tu khác, tu Bồ-Tát hạnh phải trồng nhân rất lâu đời.

Như trong Kinh Lăng-Nghiêm, Bồ-Tát Di-Lặc trình bày nhân địa tu hành của Ngài, chúng tôi xin được tóm gọn như sau:

"Trong vô số kiếp từ trước, Đức Di-Lặc xuất gia tu theo Đức Phật Nhật-Nguyệt
Đăng Minh. Khi ấy có 20 ngàn Đức Phật tên Nhật-Nguyệt Đăng Minh nối tiếp
nhau ra đời. Chẳng thấy nói rõ Ngài tu với Đức Phật nào, nhưng Ngài nói
tu lâu lắm. Nhờ Đức Phật Thích-Ca dạy tu "định duy tâm thức", Đức Di-
Lặc mới được Tam-ma đề tức đắc đại định. Rồi trãi qua nhiều kiếp nữa.
Ngài dùng pháp Tam-muội ấy phụng sự cúng dường hằng sa chư Phật. Mãi đến
khi Phật Nhiên Đăng ra đời, Đức Di-Lặc mới được thành-tựu
Vô-Thượng-Diệu-Viên-Thức-Tâm-Tam-Muội. Qua đến đời Phật Thích-Ca, Ngài
mới được thọ ký và được thành Bồ-Tát Nhứt-Sanh Bổ-Xứ. Chỉ còn một đời
này là được thành Phật.

Tất cả chúng sanh, chắc không ai tính nổi từ khi đi tu cho đến ngày thành Phật, Đại Bồ-Tát Di-Lặc đã tu bao
nhiêu đại A-tăng kỳ kiếp mới được thành Bồ-Tát Nhứt Sanh Bổ Xứ.

Còn trường-hợp người tu niệm Phật, theo Kinh A-Di-Đà Yếu Giải: "Người dân ở Thế-giới Cực-Lạc đều là Bồ-Tát Nhứt-Sanh Bổ-Xứ".

Như vậy, người được Vãng Sanh Cực-Lạc tương lai sẽ giống như Đại Bồ-Tát
Di-Lặc hiện đang ở nội viện cung trời Đâu Suất, đang chờ ngày thành
Phật.

Tóm lại, do niệm Phật nhứt tâm bất loạn sẽ được Vãng
Sanh; Khi Vãng Sanh sẽ được bất-thối chuyển và sẽ thành Bồ-Tát Nhất Sanh
Bổ-Xứ, chỉ một lần Vãng Sanh là được bổ làm Phật.

Chư liên-hữu
đã rõ rồi: "Tu niệm Phật sẽ được Vãng Sanh và khi đã Vãng Sanh và khi
đã Vãng Sanh chắc chắn sẽ được thành Phật". Đây là ý nghĩa "Niệm Phật
thành Phật".

Đây là ý nghĩa "Niệm Phật thành Phật". Nhưng muốn được Vãng Sanh cần phải có lòng tin và phải phát-nguyện. Lòng tin không
vẫn chưa đủ, phải phát-nguyện, giống như quý liên-hữu muốn Tết này về
thăm quê hương Việt-Nam, coi lại tiền túi, thì tin chắc rằng tiền cũng
đã đủ, song lại không đặt mua vé máy bay, thì hết Tết cũng vẫn chưa về.

Phật nói trong Kinh A-Di-Đà:

Xá-Lợi-Phất!Nếu có người đã phát-nguyện, đang phát-nguyện. Muốn sanh về nước Phật
A-Di-Đà, những người đó hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, đều
được Bất-Thối-chuyển nơi quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (tức quả
Phật) ở cõi nước ta. Cho nên Xá-Lợi-Phất! Các thiện-nam-tử,
thiện-nữ-nhân, nếu có lòng tin, phải nên phát -nguyện sanh về quốc-độ
ấy".

Chư liên-hữu! Chư vị đã phát-nguyện Vãng Sanh chưa?

Hiểu Về Tịnh-Độ Cực-Lạc Chư liên-hữu đã hiểu: "Tu Niệm Phật chắc chắn sẽ thành Phật ngay trong đời"
Đó là cõi Tịnh-Độ Cực-Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Chúng ta cần hiểu thêm
về Tịnh-Độ ấy .

Gần đây phong trào tu niệm Phật cầu nguyện Vãng Sanh càng ngày càng lên cao. Có người e ngại, viết sách Thiết lập
Tịnh-Độ, cho rằng Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Cho rằng "một lòng Thiền
mà tu được thanh tịnh thì lòng Thiền ấy chính là một cõi Tịnh". Sách này
đang được bày bán ở các nhà sách.

Vậy thế nào là một cõi Tịnh-Độ Cực-Lạc ?

Muốn biết rõ nên đọc cuốn Kinh A-Di-Đà Yếu Giải của Sa môn Trí-Húc.

Đa số cõi Phật là cõi Tịnh-Độ . Nhưng, cõi Tịnh -Độ của Đức Phật A-Di-Đà
độc đáo thù thắng không một cõi Phật nào sánh kịp. Hay nói một cách
khác, cõi Tính-Độ của Đức Phật A-Di-Đà hoàn toàn không giống cõi Tịnh-Độ
nào hết .

Trước tiên cần nói rõ thêm: cõi Tịnh-Độ Tây Phương của Đức Phật A-Di-Đà được gọi là Tịnh-Độ Cực-Lạc. Đó là do Đức Phật
A-Di-Đà, khi Ngài phát 48 Đại-nguyện muốn xây dựng một cõi Tịnh-Độ đặc
biệt. Nơi đó không có ba đường dữ, không có khố đau, nên gọi là Tịnh-Độ
Cực-Lạc . Người viết sách Thiết lập Tịnh-Độ không đọc kỹ kinh, nên vô
tình để lộ chỗ sơ-hở .

Ngài Trí-Húc viết thêm:

Cái Thế-giới Cực-Lạc nói trong kinh này, chính là cõi Đồng cư Tịnh-độ, khiến
được người phàm phu cảm ứng hiện ra ở Thế-giới Cực-Lạc một cõi Đồng cư
cực kỳ thanh tịnh, mà ở trong những Phật độ khác ở khắp mười phương
không thể có được, chỉ riêng Cực-Lạc mới có một cõi Đồng cư như thế mà
thôi; có thế thì mới là tôn chỉ phép tu Tịnh-độ ở Cực-Lạc.

Thật đáng buồn! Thời nay có rất nhiều người, lìa kinh mà thuyết pháp Tịnh-Độ; dạy không cần tụng kinh mà tu theo Phật.

Hiểu sai về Tam Quy Y Quả báo sẽ là Địa-ngục

Người tu theo đạo Phật đều phải Quy y Tam Bảo. Những năm gần đây
như là phong-trào quy y theo Thầy. Phật tử đua nhau lựa Thầy, bay đến
chỗ này, chỗ kia, lựa Thầy để quy y.

Trong bộ băng giảng về Kinh Lăng-Nghiêm, Hoà-Thượng Tịnh-Không có nói, nhiều người yêu cầu được
quy y với Ngài, và Ngài giải-thích việc quy y ấy như sau:

"Trước tiên, khi mới nhập môn theo đạo, được truyền thọ Tam Quy. Truyền thọ
cái gì ? Đem cương lãnh Phật pháp truyền thọ cho trò .

Cương lĩnh có 3 điều, gọi là Tam Quy; Chúng ta gọi là Tam Quy Y. Quy là hồi
quy. Y là nương nhờ. Chúng ta trước kia mê-hoặc điên-đảo. Bây giờ Phật
dạy chúng ta, chúng ta từ trong điên-đảo quay trở lại nương tựa vào cái
trí tuệ chơn thật, nương tựa vào cái Chánh-giác chơn chánh. Đây gọi là
Quy Y Phật .

Tôi Quy y Phật, Phật là Chánh-giác. Phật là Giác-ngộ, Phật là Trí-tuệ. Nói một cách khác, trước kia tôi đối với
người, với vật lấy cảm tình xử sự. Cảm tình là mê, bây giờ thì tôi phải
lấy lý-trí làm chủ, tôi không còn mê nữa. Tôi lấy lý tánh để phán đoán.
Bất luận đới với người, với việc, với vật đều làm vừa đúng mức tròn đầy
viên-mãn, thì tôi đã có nơi nương tựa. Nương tựa vào tự tánh-giác, nương
tựa trí-tuệ. Đây là quy y Phật .

Trước kia, chúng tôi đối với vũ-trụ nhân sinh, cách tưởng, cách nhìn đã có nhiều sai lầm. Sai lầm là
mê. Nay tôi từ trong sai lầm này mà quay đầu trở lại, là hồi quy. Tôi
phải nương tựa vào cách nhìn chính xác, cách nghĩ chính xác, chính-tri
chính-kiến . Đây gọi là quy y Pháp.

Cho nên Pháp là chánh tri, chánh kiến . Chánh mà không tà .

Ba là Quy y Tăng.

Tăng đại biểu cho thanh-tịnh, lục căn thanh-tịnh. Một hạt bụi cũng không
nhiễm. Chúng ta đều tất cả ô nhiễm. Tinh-thần ô nhiễm, tâm-lý ô nhiễm,
tư-tưởng ô nhiễm, kiến-giải ô nhiễm. Thậm chí hiện nay thân thể cũng bị ô
nhiễm. Thật là ô nhiễm, chúng ta phải tránh xa những thứ ô nhiễm quay
về với thanh-tịnh . Chúng ta cần tâm-thanh-tịnh. Chúng ta cần thân tâm
thanh-tịnh. Đây gọi là quy y Tăng.

Cho nên tu học Phật pháp vừa vào cửa thì trước tiên phải đem cái nguyên-tắc của sự tu hành,
cương-lĩnh của sự tu-hành truyền thọ cho anh.

Đây gọi là truyền-thọ Tam Quy.

Cho nên Tam Quy, cái thứ nhứt là Quy y Phật, giác mà không mê.

Thứ hai là Quy y Pháp, chánh mà không tà.

Thứ ba là Quy y Tăng, tịnh mà không nhiễm .

Chỉ cần là người xuất gia, thọ qua Đại giới đều có thể vì đại chúng mà truyền thọ Tam Quy.

Vần-đề là, có phải anh đã thực sự thọ Tam Quy hay không ? Dĩ nhiên, từ nay anh
giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh mà không nhiễm . Anh thật sự
là đệ tử Tam Quy, là học trò của Phật .

Thọ Tam Quy rồi mà vẫn còn mê-hoặc điên-đảo còn tà tri tà kiến, còn ô nhiễm vậy thì đã sai rồi!

Tại sao đã quy y một lần mà còn tìm Thầy Quy y nữa ?

Vậy là anh vào Phật môn để thọ cái mê mà không giác. Tà mà không chánh,
nhiễm mà không tịnh. Anh sợ cái mê, tà nhiễm của anh không đủ nhiều, vẫn
còn đến thọ thêm một lần nữa thì làm sao kham nổi. Vậy là quá đổi sai
lầm!

Chẳng phải tấm phái quy y, không quan trọng, mà anh thật
sự hồi đầu mới là quan trọng. Cái này thì chư Phật Bồ-Tát thừa nhận.
Chứng chỉ Quy y không quan trọng. Xin hãy ngàn lần ghi nhớ, tôi thọ Tam
Quy là chứng nhận 3 nguyên tắc tối cao về sự tu học Phật pháp chớ chẳng
phải để bảo là tôi quy y với Pháp sư danh tiếng nào đó. Vậy là anh đã mê
hoặc điên đảo. Anh quy y là quy y với vị thầy nào đó. Anh rõ ràng là
quy y Tam Bảo mà, chớ chẳng phải quy y với vị thầy nào đâu.

Quy y với vị thầy nào đó là tà y, tà kiến. Mê mà chẳng giác. Anh đã mê vị
thầy này rồi, còn thầy kia anh không ưa thích. Tư tưởng của anh không
chánh tri chánh kiến. Đó là tà y, tà kiến.

Đó là tâm anh có phân biệt, có chấp trước. Anh đã bị ô nhiễm, không thanh-tịnh rồi. Cho
nên quy y với vị thầy nào đó, rồi bảo tôi đã quy y với thầy đó. Anh nhứt
định là mê. Anh đối với Tam Quy hoàn toàn không hiểu rõ, hoàn toàn
không biết.

Quý thầy là đại biểu của Tăng đoàn, vì anh mà truyền thọ Tam Quy. Sau khi tiếp nhận Tam Quy, chủ trì Tam Bảo cũng là
Thầy của chúng ta, chúng ta phải tôn-trọng . Như khi nảy đã nói; tâm
chúng ta phải thanh-tịnh, phải bình-đẳng. Phàm là kẻ xuất gia đều là
thầy của chúng ta, như vậy là đúng. Vì thầy truyền thọ Tam Quy là đại
biểu cho Tăng đoàn. Ông ta truyền thọ cho tôi, ông ta chứng minh cho
tôi...là để tử của Tam Bảo .

Quý vị nên hiểu rõ điều này. Muôn
ngàn lần xin chớ hiểu sai. Nếu bảo Thầy này là thầy quy y của tôi, người
kia chẳng phải là thầy quy y của tôi. Tương lai quả báo của anh sẽ là
địa ngục. A tỳ. Đây là nói thật, đừng tưởng rằng tôi đang doạ quý vị.

Tại sao lại có tội trọng như vậy ?

Tăng-đoàn là hoà hiệp Tăng đoàn. Cho nên quý vị xem trong
giới-luật có nói đến giới không trộm cắp. Tội nặng nhứt là lấy trộm phẩm
vật trong tăng đoàn. Bởi vì, tăng đoàn không phải chỉ là ở trên trái
đất chúng ta, không phải là ở trên một quốc gia. Tăng đoàn là tận hư
không biến pháp giới. Những người xuất gia ở trên khắp quốc độ của chư
Phật. Tất cả đều có phần. Anh gây tội, thì tội này quá nặng. Vậy cho nên
đoạ lạc cũng nặng.

Tăng-đoàn là một thể hoà hợp. Đây là thầy tôi, ông kia chẳng phải là thầy tôi, tức là anh đang ở đó phân hóa (chia
rẽ) tăng đoàn; anh đang ở đó phá hoại tăng đoàn. Tội này rất nặng. Ở
trong tăng đoàn mà tạo nên sự chia rẽ. Tội đó không còn cách chi nói
nữa, chư Phật Bồ-Tát cũng đều không thể tha thứ chúng ta. Điều này chúng
ta tất phải biết rõ, Tăng-đoàn phải hoà hợp. Lục hoà kính tận hư không
biến pháp giới. xuất gia đều là một. Tuyệt đối không thể phá hoại tăng
đoàn. Cho nên quý vị khi thọ Tam Quy phải nên biết rõ. Muôn ngàn lần xin
đừng sanh ra hiểu lầm.

Tam Quy là khối đá nền tảng của giới luật, tức là căn-bản. Thọ giới tức là sau khi thọ Tam Quy. Trước tiên
phải rõ căn-bản Tam Quỵ Trên căn-bản này thiết lập giới học. Nhiên hậu
lấy giới học làm căn-bản, thiết lập định học. Trên định học mới thành
tựu tuệ học. Giống như cất nhà, Tam Quy là nền móng.

Chúng ta muốn cất lầu 3 tầng, trước phải từ nền này. Nếu nền vững chắc rồi, kiên
cố xây lầu một, rồi lầu hai, lầu ba. Nguyên lý như vậy. Cho nên trước
khi giảng tam vô lâu học, phải thuyết giảng đơn sơ với quý vị. Nhiên hậu
chúng ta mới đem nhiếp tâm làm giới.

Đại Thế Chí Bồ-Tát dạy
chúng ta nhiếp cả 6 căn. Anh xem nhiếp cả 6 căn thì giới học viên mãn.
Tịnh niệm nối tiếp thì định tuệ thành tựu. Tịnh niệm là định, nối tiếp
là tuệ. Có thể thấy phương pháp mà Đại Thế Chí Bồ-Tát dạy cho chúng ta,
nhiếp cả 6 căn, tịnh niệm nối tiếp cũng là Tam Vô lậu học viên-mãn.

Tóm lại, ý Hoà-Thượng Tịnh-Không nói, quy y một lần được Phật chứng rồi là
đủ. Từ đây về sau không quy y ai nữa . Thầy chỉ là ngón tay dùng để chỉ
mặt trăng. Khi thấy mặt trăng - tượng trưng cho Phật pháp - rồi, thì
theo mặt trăng chứ không theo ngón tay này, ngón tay kia. Hành động theo
ngón tay là vô-tình mang tội phá-hoại Tăng-đoàn. Một Phật tử có thể đến
chùa này, chùa kia tu tập, nhưng không nên quy y hai lần hoặc nhiều
lần.

Hiểu về hai chữ "Công-Đức"

Hai chữ "Công-đức" cũng là một vấn-đề hết sức trọng đại. Từ nhiều
năm nay hai chữ "công-đức" đập vào tâm-trí chúng tôi nhiều lần, tạo nên
thắc mắc, gây nên suy tư, cuối cùng chúng tôi ngộ được giá trị của
công-đức .

Thiết tưởng chúng tôi nên trình bày đầy đủ các
giai-đoạn tao ngộ, và chạm với hai chữ công-đức, để chia xẻ với chư
Liên-hữu những điều hiểu biết.

Chuyện Một:

Khi mới bắt tay vào học tập Phật pháp, chúng tôi gặp một đoạn sách viết về cuộc đối
thoại giữa Tổ Bồ-đề Đạt Ma với Vua Lương Võ-Đế.

Lúc này Tổ Đạt Ma mới từ Ấn-độ sang đến Trung-Hoa. Lương Võ-Đế là một ông vua theo đạo
Phật, đã cất nhiều chùa, nuôi tăng tu học, vì vậy ông ta mới hỏi Tổ:

- Cất chùa, tạo tượng Phật, nuôi chư Tăng có được công-đức không ?

Tổ Đạt Ma trả lời:

- Không!

Người ta giải-thích công-đức có hai thứ, một là vô lậu, hai là hữu lậu. Cái
mà vua Lương-Võ-Đế làm như đúc tượng Phật, cất chùa, nuôi tăng đều là
hữu lậu, nên Tổ Đạt Ma bảo là không có công-đức. Công-đức vô lậu, nó
thuộc về Tâm không có phiền não. Tâm mới giúp cho người tu thành Phật.

Như đã nói, thuở ấy chúng tôi mê Thiền, nên mới thấy như vậy quả là đúng. Nhưng tới bây giờ, khi rõ lại chúng tôi phân vân.

Chúng tôi không cho là Tổ Bổ-Đề Đạt Ma nói sai. Có thể ai đó, khi ghi chép
lại viết không tròn câu văn, cố ý diễn đạt theo ý người đó; hoặc có thể
do "tam sao thất bổn".

Khi viết sách này chúng tôi đọc lại Kinh
Phật Thuyết Vô-Lượng-Thọ, thấy Phật nói "in Kinh, tạo tượng, cất chùa
công-đức thật lớn". Dưới đây là đoạn kinh Phật thuyết Vô-Lượng-Thọ:

HẠNH SANH BỰC TRUNG:

"Các chúng trời người trong các thế-giới ở khắp mời phương, những
ai hết lòng sanh nước ấy, mặc dầu chẳng thể làm hạnh Sa-môn, tu công-đức
lớn, nhưng nên phát tâm Vô-Lượng Bồ-đề, một mực chuyên niệm Phật
Vô-Lượng-Thọ, theo khả năng mình mà làm các việc phước đức từ thiện,
vâng giữ trai giới, xây tháp cất chùa, in kinh tạo tượng, cúng dường
Sa-môn, treo phan thắp đèn, dâng hoa thắp hương cúng dường Tam Bảo, dùng
những phước ấy hồi hướng phát-nguyện, nguyện sanh lạc quốc ..."Đến lúc
lâm chung, người ấy sẽ thấy hóa thân của Phật, tướng tốt sáng ngời,
không khác chơn thân Phật Vô-Lượng-Thọ và thấy Thánh-chúng hiện ra trước
mặt, liền đó hành giả theo sau Hoá Phật Vãng Sanh Lạc -Quốc, ở bực bất
-thối, sau đó công-đức, trí tuệ người ấy như bực thượng".

Chữ bực thượng trên đây, có nghĩa là Thượng-Sanh. Như vậy người cất chùa, in
kinh, tạo tượng đều có công đức và Vãng Sanh bực Trung Sanh, sau đó
công-đức, trí tuệ sẽ như người Thượng-Sanh.

Do đâu mà có được công-đức như vậy ?

Kinh nói, vào thời mạt pháp kinh-điển sẽ mất dần. Do đó, in kinh, cất chùa,
tạo tượng là giữ cho Chánh-pháp còn được lâu dài ở thế-gian, giúp chúng
sanh gần gũi với Chánh-pháp là những công-đức vô lậu.

Nhớ lại, thuở xưa khi cõi này không có Phật ra đời, ở nhằm thời Pháp diệt. Tiền
thân của Đức Phật Thích-Ca là một người tu khổ hạnh, muốn tìm Phật pháp
mà không sao có được. Vua trời Đế-Thích thấy vậy mới giả làm quỷ Dạo Xa
nói với người tu khổ-hạnh rằng y ta biết Phật pháp, nếu chịu cho y ta
uống máu ăn thịt thì sẽ nói cho nghe. Người tu khổ-hạnh, tức tiền thân
Đức Phật, vì muốn nghe Phật pháp mà sẵn-sàng hiến thân.

Giá trị của Phật pháp to lớn như vậy, cho nên việc duy trì Phật pháp càng dài lâu ở thế-gian thì công-đức càng vô cùng là phải .

Cho nên việc xây dựng chùa, tạo tượng lớn cho thật vững chắc cũng là
công-đức. Như hiện nay người ta đang lo xây tượng Bồ-Tát Di-Lặc, Đức
Phật Vị Lai, lớn nhứt thế -giới. Đây là công-đức vô-lượng. Nhưng tạm
dụng việc xây cất chùa, in kinh để gây lợi dưỡng, là có tội đoạ vào
đường dữ phải đội sừng mang da - Ai ơi, hãy nhớ điều này.

Chuyện hai:

Khi chúng tôi viết sách Sưu Giải Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật có trích một đoạn
Phật nói trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm rằng: "Chư Phật có bao nhiều
công-đức đều cho người trì chú Thủ-Lăng-Nghiêm".

Chúng tôi đưa
sách tham-khảo một người bạn, anh này cho rằng "tại sao Phật phải cho
công-đức ?", khuyên chúng tôi nên bỏ đoạn này . Nhờ dịp tranh cãi này
chúng tôi lưu ý thêm về công-đức và tìm hiểu tại sao Phật cho chúng sanh
công-đức .

Thì ra, Phật biết chúng sanh rất nghèo nàn
công-đức, mà lại nhiều nghiệp ác. Chẳng những vậy chúng sanh lại thích
ăn hành hẹ tỏi, khi lâm chung sẽ trở thành quyết-thuộc của ma. Chư Phật
thương xót chúng sanh nên đã dùng nhiều cách cứu giúp. Người có lòng đại
từ đại bi, nhứt là Đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu Ni, Ngài từ cõi Phật
Vô-Thắng đã thị hiện xuống cõi Ta bà này thành Phật để đưa chúng sanh ra
khỏi ba đường ác. Ngài chỉ dạy đủ thứ đường để chúng ta tránh khỏi ma
đạo, nhưng chúng sanh vẫn mê...Cuối cùng Ngài phải bảo hãy niệm chú
Lăng-Nghiêm đi, chư Phật cho công-đức . Vì chú Lăng-Nghiêm uy lực rất
lớn, người niệm chú sẽ khiến chúng ma tránh ra xa.

Chuyện ba:

Trong chư Phật, Phật A-Di-Đà nhiều công đức nhứt. Do khi Ngài trang-nghiêm
cõi Cực-Lạc đã dành năm kiếp để thành tựu. Ngài đã lập 48 Đại -nguyện,
nếu một đại nguyện chẳng được như ý Ngài chẳng thành Phật.

Năm kiếp xây dựng cõi Phật với 48 Đại-nguyện chỉ với một câu ngắn gọn:

"Ai niệm danh hiệu ta mười niệm, khi lâm chung muốn về nước ta thì liền được về. Về đây rồi sẽ thành Nhứt sanh Bổ-xứ Bồ-Tát".

Công-đức của Đức Phật A-Di-Đà thật vô-lượng vô-biên không ai có thể sánh bằng.
Khi Đức Thế Tôn giảng Kinh A-Di-Đà và Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật vừa dứt,
thì mỗi lần chư Phật mười phương đồng hiện ra ca ngợi công-đức của Đức
Phật A-Di-Đà .

Trong Kinh A-Di-Đà Yếu Giải Ngài Trí-Húc mách
khéo cho chúng ta; ngụ ý nói: "Công-đức của Phật A-Di-Đà Vô-lượng,
vô-biên như thế, tại sao chúng ta chẳng dùng danh hiệu A-Di-Đà Phật, để
tắm mình trong biển công-đức đó. Uống nước công-đức đó, tại sao chẳng
nhiếp lấy công-đức đó thành những phần công-đức của mình để thoát khỏi
luân-hồi sanh tử ?"

Vì trong nhà Phật, thì một quả đã thành thì
muôn quả đều thành, do "cái nhân tu chí nguyện, thực hành" của Phật
A-Di-Đà; bởi cái quả y và chánh báp rất mầu nhiệm ở quả đất bên kia.

Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phật Thích-Ca, Bồ-Tát Phổ-Hiền và Quán-Thế-Âm
đã dùng vô-số mỹ-từ để ca ngợi công-đức của Đức Phật A-Di-Đà.

Bởi công-đức của Đức Phật A-Di-Đà Vô-Lượng, chỉ một lần Vãng Sanh về đó là
thành Phật trong đời, nên trong Kinh Phật Thuyết Vô-Lượng-Thọ, nơi quyển
hạ, sau khi khen oai-thần công-đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A-Di-Đà,
nói rõ ba hạng, Thượng, Trung, Hạ, do niệm Phật mà chứng được, Đức
Thích-Ca Thế-Tôn nói bài tụng 124 câu, chúng tôi xin trích ra đây 4 câu
nói lên ý-nghĩa một lần Vãng Sanh đến nước ấy mau chứng thần-thông, được
Phật A-Di-Đà thọ ký thành Phật:


Đến nước thanh-tịnh ấy

Mau chứng được thần thông

Được đức Vô-Lượng Tôn

Thọ ký thành Chánh giác.




Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 9:02 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:22 am

CHƯƠNG MƯỜI MỘT: NIỆM PHẬT CÁCH NÀO CHẮC ĐƯỢC VÃNG SANH THẾ-GIỚI CỰC-LẠC ?
Trong sách này, mỗi chương đều hữu-ích
cho tất cả những ai thật tâm niệm Phật cầu Vãng Sanh. Nếu chư liên-hữu
tin tưởng vào chúng tôi xin đọc kỹ các chương sau cùng này và dạy cho
con cháu, nhắc nhở thân nhân bạn bè cùng đọc, chắc chắn sẽ hữu ích cho
việc Vãng Sanh Tây-Phương Cực-Lạc Tịnh-Độ .

Xin luôn luôn nhớ đến hai chữ Cực -Lạc và đừng để bị người ta đánh lừa một cõi Tịnh-Độ nào
khác mà thiếu hai chữ Cực-Lạc, là cõi Phật của Đức Từ Phụ A-Di-Đà.

Ngoài niềm tin vào Đức Từ Phụ A-Di-Đà, chúng ta còn cần thêm một lòng tin
vững chắc là, chúng ta không phải là người trung căn hay hạ căn, mà là
người đã có căn lành từ muôn kiếp . Bao nhiêu kiếp về trước - một kiếp
là 16 triệu 800 ngàn năm - chúng ta đã từng gặp Phật, từng cúng dường và
thân cân với Phật, nên kiếp này nghe nói đến Pháp môn Niệm Phật chúng
ta tin theo ngày và dốc lòng trì niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật .

Nhưng, dù đã thân cận Phật hay chưa gần gũi, bất cứ ai tin vào lời nguyện của Phật A-Di-Đà, đều được Phật tiếp dẫn như nhau.

Lòng tin này sẽ giúp cho chúng ta cảm thấy thân thương, quý ái và gần gũi
với Đức Từ Phụ nhiều hơn. Chúng ta giống như người con xa nhà từ lâu,
nay trở về mà tình yêu thương vẫn đượm nồng chan chứa .

Trong chuyến xa nhà này, chúng ta đã luân hồi khắp nơi. Chẳng biết bao nhiêu
kiếp, chúng ta đã lên các cõi trời. Nơi nào cũng đã đi hết. Hết ở cõi
trời có khi chúng ta xuống làm người; có lần từ cõi trời chúng ta lại
lọt tuốt xuống địa-ngục, không sao nhớ tính cho hết. Mỗi lần đổi thân là
chúng ta quên hết. Chỉ bực đại Bồ-Tát, chứng Vô-sanh nhẫn mới nhớ được.
Nhưng trong duyên may, chúng ta có lần gặp Phật, cúng dường Phật và
nghe Pháp. Nhờ vậy, lần này chúng ta trở lại làm người và nghe biết Pháp
môn niệm Phật này .

Nhờ duyên may được gặp lần này nếu chúng
ta không biết nhơn cơ hội nắm lấy cho chắc danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật
từ ngay giờ phút này thì, coi chừng chúng ta bị vuột mất dịp quý. Vì,
nếu khi qua một đời khác, chẳng rõ chúng ta có được lại thân người nữa
không, hay sẽ đổi thân khác, sẽ mang lông đội sừng hay làm ngạ-quỷ, hay
rơi thẳng địa-ngục.

Chúng ta có đổi thân khác hay không, là do cái nghiệp lành, nghiệp dữ của chúng ta tạo ra, từ những kiếp trước và kiếp này.

Chỉ có một hạng người vượt khỏi thông lệ chung này. Đó là hạng người "Đới
nghiệp Vãng Sanh". Họ mang cả nghiệp vượt tất cả, khỏi tam giới, Nhờ
bản-nguyện, oai thần và công-đức của Đức Phật A-Di-Đà. Họ nhờ niệm
danh-hiệu A-Di-Đà Phật, khi sắp lâm chung, Phật A-Di-Đà và Thánh-chúng
đến tiếp dẫn.

Tại sao người niệm Phật có được ngoại lệ này ?

Đức A-Di-Đà có 48 Đại -nguyện, người niệm Phật đáp ứng bản-nguyện của Đức
Phật A-Di-Đà, bằng Tín là lòng tin vững chắc; bằng Nguyện là phát nguyện
Vãng Sanh; bằng Hạnh là nhứt-tâm trì niệm hằng ngày. Mỗi câu niệm Phật
của người trì danh hiệu Phật - Giống nhau chư liên-hữu - sẽ được trừ tội
lỗi tám trăm ngàn (tức 80 ức) kiếp sanh tử cho một niệm.

Khi chúng ta niệm Phật, chúng ta được giảm dần nghiệp ác. Chúng ta được nhẹ
bớt nghiệp ác chứ không bao giờ hết được, vì chúng ta đã tạo-nghiệp từ
vô-lượng vô-biên kiếp, mà không sao tính biết được .

Trí-Húc Đại sư trước là người tu Thiền, là một bực Thiền Sư nổi danh trong đời, sau viết "Kinh A-Di-Đà Yếu Giải" đã tự nói rõ:

"Húc tôi đây, khi mới xuất-gia, tự phụ là một nhà Thiền-Tông, khinh thường
các giáo điển, dám nói bậy rằng phép "Tu trì niệm danh hiệu Phật" chỉ là
một phương tiện bày ra, riêng cho người trung căn và hạ căn.

Về sau, nhân vì tôi đau nặng, mới chịu phát tâm cầu về Tây-Phương".

Nhờ niệm Phật, Trí-Húc Đại sư hết bịnh, và về sau trở thành một vị Tổ Tịnh-Độ Tông với danh hiệu Ngẫu-Ích .

Ở các chương trước chúng tôi đã nhắc nhở, lập đi, lập lại về công-đức của
Phật A-Di-Đà, xin chư vị luôn luôn nhớ chữ công-đức nầy .

Ngài Trí-Húc viết:

"A-Di-Đà Phật, là một danh hiệu lớn lao, gồm có vạn công-đức, niệm danh-hiệu ấy
để đời công-đức của Ngài đến với mình, thì công-đức nào cũng phải đến
hết".

Chư liên-hữu nào đã niệm Phật rất lâu năm, chắc hẳn bây
giờ công-đức của chư vị đã nhiều vô số: đương nhiên chư liên-hữu ấy đã
có được chút ít ngoại lệ rồi .

Nhưng Ngài Trí-Húc có nói một điều:

"Vì rằng những thiện căn tán loạn man mác ra..., thì khó lòng địch lại tội
ác tích luỹ từ vô thỉ kiếp . Phải biết rằng những tội ác ấy, giá mà có
thể tướng, thì cả một cõi hư không này cũng không chứa được hết, tuy
rằng một đêm một ngày niệm được 100 ngàn tiếng A-Di-Đà Phật, mỗi tiếng
niệm được tám mươi ức kiếp sanh tử trọng tội, mà niệm đủ một trăm năm,
thì cũng chẳng tiêu được hết những tội nghiệp ấy, vì rằng những tội đã
diệt rồi thì ít lắm, chỉ bằn một tí đất ở đầu móng tay mà thôi, mà những
tội lỗi chưa diệt được hãy còn nhiều bằng cả một quả đất này".

Cho nên ở trên chúng tôi dùng chữ "Đương nhiên chư liên hữu ấy đã có được
chút ít ngoại lệ rồi". Dù rằng chúng ta niệm Phật mà chưa được nhứt tâm.

Hãy nghe Ngài Trí-Húc viết tiếp:

"Chỉ có người nào niệm Phật đến chỗ nhứt tâm bất loạn thì mới có sức mạnh như một kiện tướng phá vòng vây tội ác ấy mà ra..."

Khi một người niệm Phật tới nhứ tâm, lâm chung Phật A-Di-Đà và Thánh chúng
đến đón, thì ngoại lệ hiện tiền; công đức của Phật A-Di-Đà hiện bày; như
hào quang chiếu sáng, hương thơm ngào ngạt, tâm không điên đảo ta vui
mừng báo tin cho thân nhân rồi theo Phật và Thánh chúng về cõi Cực-Lạc
một cách tự tại!

Kinh nói: "Những người Vãng Sanh về nước
Cực-Lạc, tất cả đều đủ ba mươi hai tướng, trí tuệ đầy đủ vào sâu các
pháp, thấu rõ chỉ thú thâm yếu vi diệu, thần thông vô ngại các căn sáng
lạ ...."

Một người đang là phàm phu ở Ta bà, trong một sát na
về tới Cực -Lạc tất cả đều đủ ba mươi hai tướng tốt . Thật là khó nghĩ
bàn .

Cho nên Phật dạy nên phát nguyện sanh sang kia. Kinh A-Di-Đà mới có câu:

"Ai nay phát nguyện thì nay được sanh". Chữ nay có nghĩa là trong đời này, như chương trước đã nói .

Tại sao hầu hết sẽ được quyết định vào giờ phút lâm chung của đời ?

Chữ hầu hết trên đây là ám-chỉ người không tu pháp môn niệm Phật, sống
thiếu công-đức của Phật A-Di-Đà cho nên khi lâm chung phải tuỳ theo
nghiệp lực mà trả vay, và rồi theo cận tử nghiệp mà sanh về một cõi nào .
Đó là quyết định vào giờ phút lâm chung.

Có người tu pháp môn khác, nói với chúng tôi rằng, tôi tu với ý định sau khi chết sẽ trở lại độ chúng sanh, rồi tu tiếp .

Đó là người chỉ nói chớ chưa chiêm nghiệm lúc chết sẽ ra sao, sẽ hôn mê như thế nào (?).

Tâm nguyện thì tốt, nhưng sự hiểu biết về sống chết, luân hồi còn quá non cạn, e rằng khó được như ý tốt .

Bởi sao ? Ngài Trí-Húc Đại sư viết trong sách Yếu Giải:

"Vì rằng cứ tự lực mình tu hành ở nơi uế-trược này, khi tới lúc sắp chết,
là lúc đến cái "Cửa ải tử sinh", rất khó đủ lực mà đi qua được . Chẳng
nói làm gì những kẻ tu hành ngoan cố, có chút trí tuệ cuồng ngông, buồn
tủi không có kết quả, nói ngay những người tu phép Thiền-Tông đốn ngộ
sâu xa, giữ gìn cẩn thận thực tế và tiềm tàng đích xác lắm, thế mà đến
lúc ấy (lúc lâm chung), chỉ một tí Tập Khí (đều là tập quán và khí lực
của tham, sân, si, mạn nghi là kiến ...)bằng sợi tơ còn sót lại chưa trừ
được hết, nó cũng thừa sức mạnh lôi kéo mình đi truỵ lạc, chưa thoát
khỏi được đâu".

Kinh nói: "Đến đời Mạt Pháp, ức vạn người tu
hành, ít khi có một người đắc đạo, chỉ còn nhờ vào phép tu niệm Phật này
mà được độ thoát thôi.

Người tu được quả dạo thứ nhứt
Tiểu-Thừa rồi mà phải đầu thai, lúc đẻ ra, thành người mê muội. Vì
Bồ-Tát cách thân ngũ ấm này sang thân khác, thàm người hôn mê. Lúc đó,
nó có để cho mình cố gượng làm chủ tế mình đâu, mà còn lơ mơ cầu may ra
thì được ".

Trên đây toàn là lời của Trí-Húc Đại-sư.

Bồ-Tát sau khi chết, bỏ thân ngũ ấm này sang thân khác, còn bị hôn mê quên hết
quá khứ. Vậy có người nói rằng tôi tu kiếp này, chết rồi sẽ trở lại làm
người tu kiếp, làm sao làm được ?

Nếu là người hiểu về Phật pháp thì phải biết là điều ấy khó thực hiện vào thời mạt pháp này .

Đối với người từng niệm Phật, Đức Thích-Ca còn dạy trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật rằng:

"Người Niệm Phật cũng lại như thế. Tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh, và
công-phu không gián đoạn bê trễ, nhưng nếu tái-sanh cõi Ta Bà vần bị
luân-chuyển vì Định Tuệ vần còn non kém, quả đức chưa hoàn mãn. Cần phải
Vãng Sanh Cực-Lạc Thế-giới, cần kề Phật và Thánh-Chúng ..."

Nên biết rằng được Vãng Sanh Cực-Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa .

Người niệm Phật, dù tín tâm dũng mãnh, công phu niệm Phật không gián đoạn, dù
có công-đức của Phật A-Di-Đà ban cho thêm, nhưng nếu không Vãng Sanh
Cực-Lạc để gần gũi Phật và Thánh-Chúng, thì vẫn bị luân chuyển luân hồi
tuỳ theo nghiệp thọ sanh vào bất cứ đường nào, vẫn có thể bị oan gia
trái chủ đòi nợ. Trừ phi Vãng Sanh Cực-Lạc, thì mới không bao giờ trở
lại địa vị phàm phu với thân năm uẩn .

Nếu ai đã từng đọc Kinh Hoa-Nghiêm, Đức Phật Thích-Ca cũng nói ở phẩm cuối cùng rằng:

"Người này khi sắp mạng chung, trong khoảng sát-na rốt sau, tất cả các căn
thảy đều tan-hoại, tất cả quyết thuộc thảy đều lìa bỏ, tất cả oai-thế
thảy đều hư mất. Duy có nguyện-vương này chẳng rời bỏ nhau, trong tất cả
thời nó đều dẫn dắt ở trước. Và trong khoảng một sát-na, kẻ ấy được
Vãng Sanh về Thế-giới Cực-Lạc".

Nguyện vương là gì ?

Đây là hạnh Nguyện của Bồ-Tát Phổ-Hiển, tức là mười điều-nguyện
của vị Bồ-Tát này . Bởi trong Kinh Hoa-Nghiêm, Đức Thế-Tôn dạy các pháp
để tu thành Phật. Nhưng, thời mạt pháp này không ai tu chứng. Cho nên
Đức Phật nói, người này sắp mạng chung, trong khoảng sát-na sau rốt, tất
cả các căn thảy đều tan-hoại, tất cả quyến thuộc thảy đều lìa bỏ, tất
cả oai-thế thảy đều lui mất, thì dù là người tu hành Thiền định lúc sắp
mạng chung, các căn thảy đều tan-hoại, tất cả quyến thuộc đệ tử bạn bè
rồi cũng đều lìa bỏ. Đây là một sự thật của thời mạt pháp này . Tất cả
oai-thế của người tu cũng đều lui mất.

Nhưng! duy có Nguyện Vương là không rời bỏ nhau, trong tất cả thời, nó đều dẫn dắt ở trước.
Và trong khoảng một sát-na, kẻ ấy liền được Vãng Sanh về Thế-giới
Cực-Lạc.

Phút lâm chung là phút đáng sợ chung của mọi người, dù
là "xuất gia" hay "tại gia". Đừng tưởng người xuất gia được miễn lệ.
Nhưng người xuất-gia tu Tịnh được may mắn hơn, vì lúc sắp lâm chung chư
vị ấy được nhiều đồng tu tụng kinh và niệm Phật trợ niệm và sau khi chết
lại được tụng kinh, trợ niệm liên tục nhiều ngày. Người tại gia không
tu niệm Phật cơ may quá ít vì thân nhân học hỏi quá ít.

Lúc ấy Phật đang nói Kinh Thiền và Kinh Hoa-Nghiêm, Phật đang dạy chư Thanh
Văn, Bồ-Tát tu Thiền-định, nhưng cuối Kinh, Đức Phật vẫn thương chư vị
ấy, chỉ thêm mười hạnh nguyện Phổ-Hiền, như cố ý rỉ tai: "Chư vị nên học
thêm pháp môn này, giờ chót mà chưa được thì hãy học mười hạnh nguyện
Phổ-Hiền . Xin Phật A-Di-Đà đến tiếp dẫn về Thế-giới Cực-Lạc".

Trong sách này ở phần sau có kể chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi" của cố
Hoà-Thượng Thích-Thọ-Trị . Ngài tu Hoa-Nghiêm Tông, chuyện lấy máu viết
Kinh Hoa-Nghiêm. Cuối cùng Ngài thực hành Nguyện Vương của Bồ-Tát
Phổ-Hiền . Ngài niệm Phật Vãng Sanh Cực-Lạc và dạy đệ tử niệm Phật Vãng
Sanh.

Cho nên trong Kinh Hoa-Nghiêm, sau khi Phổ-Hiền Bồ-Tát
nói mười đại nguyện, Ngài khuyến tấn các hàng Bồ-Tát ở bực Thập Tín,
Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác đều nên phát
nguyện cầu sanh về Cực-Lạc .

Trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Pháp
Hoa, Đức Phật đều có nhắc đến cõi Cực-Lạc và coi như Cõi Cực-Lạc và
điểm tựa an-toàn cho người xuất-gia và tại gia ở Ta bà này .

Nhờ dành nhiều ngày tháng, chúng tôi đọc nhiều kinh sách, rồi bỏ công ngồi
suy gẫm, khi viết bài này chúng tôi mới thấy rõ, lúc lâm chung có trăm
ngàn trường hợp người sắp chết khổ sở lắm. Nếu như, những người còn
thiếu nợ các oan hồn trái chủ, họ đến đòi nợ với những gương mặt khác
nhau, lôi kéo dành phần. Nghiệp trái của chúng sanh chúng ta rất nhiều,
có khi trả hết lớp này, lại đến lớp khác vẫn chưa hết.

Thương chúng sanh, Hoà-Thượng Thiền Tâm nói: "Nhiều vị xem dường như rảnh rang
không oan trái, nhưng chưa hẳn là không có, chỉ vì chưa đến thời tiết
nhân duyên đền trả đó thôi".

Có nhiều người khi còn sống phó mặc đời cho nó tới đâu thì tới. Bởi vậy, nếu hiểu một phần Phật pháp thì
nên theo lời Phật Thích-Ca dạy, bằng cách niệm Phật A-Di-Đà, thành
khẩn, niệm Phật thu lấy công-đức của Ngài, lâu ngày hoán đổi con người
tội lỗi của mình thành con người thanh tịnh; có thần lực, Phật lực
gia-hộ; sám hối, hồi hướng công-đức niệm Phật của mình cho oan gia trái
chủ .

Nhờ vào niệm Phật hiệu A-Di-Đà, sám hối và hồi hướng
công-đức (do niệm Phật, được công-đức của Phật A-Di-Đà, thêm cúng dường
Tam Bảo, in kinh) con người của mình đã biến đổi mà mình không hay biết .
Các oan gia trái chủ cũng thông cảm, Nhờ hồi hướng thân nhân ta có
người được Vãng Sanh mà mình cũng không hề hay biết . Nếu nghiệm lại tự
mình thấy tinh thần mình trở nên nhẹ nhỏm, thảnh thơi, có phần tự tại .

Đó là giai-đoạn bắt đầu giải kết với oan gia. Như các bực Tôn đức nói, có
những oan gia theo nhau cả mười kiếp chứ chẳng phải một kiếp .

Muốn được Vãng Sanh Cực-Lạc cần phải dọn mình thanh-tịnh

Sau khi đọc nhiều kinh và sách, suy tư nghiền ngẫm nhiều ngày; nghe băng
giảng của nhiều bực Thầy, chọn lọc loại bỏ những điều vô bổ - vì cũng có
những băng tác hại cho người học đạo - chúng tôi thấy có những hạnh tốt
nên nói theo như sau:

1. Bố thí, như hạnh của Hoà-Thượng
Tịnh-Không Ngài cho tất cả, cuối cùng Ngài được cảm ứng tốt . Nhưng
chúng tôi không đòi hỏi ai ai cũng được như vậy. Chỉ cần có lòng bố thí
là cũng quý rồi .

2. Phóng Sanh, như hạnh của Vĩnh-Minh Đại-sư.
Ngài phóng thích vô số sanh mạng, cá chim, giữa lúc người khác bắt ăn
thịt . Ở đây là nói tấm lòng . Người biết buông tha mạng người khác (dù
là loài vật) thì oan gia cũng tốt lại với mình.

Trước đây chúng
tôi hiểu lầm về việc phóng sanh. Thấy trong lồng chim có những con bay
ra muốn hết nỗi, nên nghĩ rằng việc phóng sanh này làm lợi cho bọn bắt
chim mà thôi. Nhưng bây giờ hiểu ra, không phải mua chim cá, các loài
cầm thú nói chung, rồi tha mạng chúng, gọi là phóng-sanh. Mà chư Tăng
Ni, hay người hiểu Pháp giảng Tam Quy, cho chúng Quy y Phật, Quy y Pháp,
Quy y Tăng. Để chi vậy ?

Để sau khi chúng bỏ lớp thú, được trả
lại làm người, trong tàng thức chúng đã có chủng tử Phật, nhờ vào sự
quy y này. Một kiếp thú dài lâu lắm. Hy vọng nhờ việc phóng sanh này mà
các thú ta phóng sanh sớm được trở lại làm người, hoặc được Vãng Sanh
Cực-Lạc .

Hẳn chư vị đều biết, loại chó mèo ta nuôi trong nhà, hay cọp beo, được nghe kinh đa số được trở nên hiền lành .

Cố Hoà-Thượng Hư Vân, Quãng Khâm khi sanh tiền đều giảng pháp quy y cho cọp dữ .

Tóm lại, khi phóng sanh, nếu không có Tăng Ni, tự mình cũng có thể giảng pháp và kêu gọi chúng Quy y Tam Bảo.

3.
Cầu nguyện cho oan hồn tử nạn khắp nơi. Gần đây gọi là Pháp Hội Niệm
Chú Tiêu-Tai Cát-Tường. Đây cũng là cách vừa cầu-nguyện, vừa hồi hướng
công-đức của mình cho họ thoát ly khổ hải.

Đây, thần chú "Tiêu Tai Cát Tường"

"Nam-Mô Tam mãn đa. Mẫu đà nẫm. A bạt la để. Hạ đa xá - Sa năng nẩm. Đát điệt
tha. Án. Kha khư. Khư hê. Khư hê. Hồng hông Nhập phạ ra. Nhập phạ ra.
Bát ra nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Để sắt Xa. Để sắt Xa - Sắt trí
ri. Sắt trí rị. Sa phan tra. Sa phan tra. Phiến để ca. Thất lí duệ. Sa
bà ha".

4. In kinh, in hình tượng Phật, Tam Thánh, hồi hướng
công-đức . Tại Việt -Nam có Ni sư Chơn Hảo in hình Tam Thánh (cỡ lớn và
thật đẹp), để tặng tất cả các chùa từ Nam ra Bắc. Phật tử tới chùa lạy
Phật, tạo công đức cho người đóng góp tịnh tài .

5. Đúc đại hồng-chung. Đón góp tịnh tài để xây đại-hồng-chung tại thánh-địa Phật ở
Ấn-Độ cũng là một công-đức lớn, làm hành-trang chờ ngày Vãng Sanh
Cực-Lạc vậy.

6. Đúc tượng Phật Di-Lặc, đóng góp tịnh tài cho
các nhà sư Mật Tông Tây-Tạng xây tượng cao và lớn nhất thế-giới. Đây là
Đức Phật vị lai sẽ giúp cho toàn thế-giới hiểu đạo Phật cũng là một
công-đức lớn, khiến cho Phật pháp trường tồn.

7. Cứu giúp cho người bị thiên tai bão lụt, động đất, hoả-hoạn v.v....nhưng đây không
phải là công-đức mà chỉ là phước đức. Nhiều người hiểu lầm cho rằng làm
bấy nhiêu việc là đủ rồi. Thật ra đây chỉ là tích đức, nhưng cũng cần
cho người tu Phật.

8 và 9. Hai việc sau cùng vẫn là sám hối và
hồi-hướng công-đức cho ông bà cha mẹ và oan gia trái chủ, khiến cho thân
tâm mình nhẹ nhàng, thanh thản khi ra đi.

Thưa chư liên-hữu thân mến,

Sách này mang tựa đề "NIỆM PHẬT CÁCH NÀO CHẮC ĐƯỢC VÃNG SANH CỰC-LẠC ?."
Chúng tôi xin chắc hầu hết chư vị đều muốn Vãng Sanh Cực-Lạc. Nhưng,
chắc chắn còn một số vị không dám nghĩ thẳng, không dám nói thẳng với tự
tâm mình rằng: "Tôi niệm Phật để được thành Phật".

Nếu bây giờ, tất cả chúng ta đồng một lòng dũng mãnh nói lớn trước bàn Phật rằng: "Con quyết tâm niệm Phật để thành Phật".

Thưa chư vị, trong kinh gọi đây là "Phát Tâm Vô-Thượng Bồ-Đề", gọi tắt là Phát Tâm Thành Phật.

Đây là sự chắc được Vãng Sanh Cực-Lạc của tất cả chúng ta. Khi chư vị khẳng
định, trong tàng-thức chư vị đã ghi đậm nét: "Người này quyết tâm thành
Phật, liền nơi Cực-Lạc Phật A-Di-Đà đã thọ ký và một cánh sen mọc lên".

Chư liên-hữu đừng e ngại, cho rằng mình hiểu ít Phật pháp làm sao thành
Phật được. Với Pháp môn Tịnh-Độ, không cần đòi hỏi hiểu hay không hiểu
Phật pháp. Chỉ cần xưng niệm 6 chữ Nam-Mô A-Di-Đà Phật hay 4 chữ A-Di-Đà
Phật đến nhứt tâm là đủ. Chúng ta tự nguyện trong tâm, tự nguyện trước
Phật, chứ không cần khoe khoang với người khác.

Bồ -đề -tâm là cái nhơn, là hột giống gieo trồng Không có cái nhơn, thì không thể kết
được quả Vãng Sanh Cực-Lạc rốt ráo. Khi chúng ta phát tâm Bồ-đề, chúng
ta biết rằng chư Phật đều đầy lòng đại tự đại bi thương xót chúng sanh,
muốn tu được như chư Phật, chúng ta cũng phải hành -động với tâm đại từ
đại bi như Phật . Và chúng ta lấy niệm Phật làm phương tiện cứu cánh .

Kinh nói: "Bồ-đề-tâm làm nhân, đại bi tâm làm căn bản, phương tiện làm cứu
cánh". Nếu chúng ta không tích cực phát nguyện "niệm Phật để thành
Phật", thì từ đây đến ngày lâm chung, chúng ta vẫn sống với tâm phàm
phu, hành động phàm phu thì khi sắp tắt thở Hoá Phật và Thánh Chúng đến
rước sẽ đưa về nơi biên-địa của Cực -Lạc . Đây cũng là cõi Cực -Lạc,
nhưng ở ngoài biên-địa như Kinh Phật Thuyết A-Di-Đà nói, sau đó cũng sẽ
gặp Phật, nhưng phải mất thêm một thời gian để tu tập sám hối .

Kinh Hoa-Nghiêm nói: "Nếu quên mất Bồ-đề-tâm mà tu các pháp lành, đó là nghiệp ma".

Tại sao?

Hoà-Thượng Thích-Thiền-Tâm giảng giải điều này trong sách Niệm Phật Thập Yếu như
sau: "Ví như người cất bước khởi hành, mà chẳng biết mình sẽ đến đâu, và
đi với mục đích gì, thì cuộc hành trình chẳng thành, quanh quẩn mỏi mệt
cùng vô-ích lắm ư ? Người tu cũng thế, nếu dụng công khổ nhọc mà quên
mất mục tiêu cần thành Phật để lợi mình sẽ sanh, thì bao nhiêu hạnh
lành, chỉ đem đến kết quả hưởng phước nhơn, thiên, chung cuộc vẫn bị
chìm mê quanh quẩn luôn hồi, chịu vô biên nổi khổ . Như vậy chẳng là
nghiệp mà còn là gì ?"

Nhưng, tại sao được hưởng phước người và trời mà Hoà-Thượng Thiền Tâm nói là, chung cuộc vẫn bị nghiệp ma ?

Vì,người tu đạo Phật, dù xuất gia hay tại gia, khi lâm chung phải đắc quả,
và ra khỏi Tam-giới . Nhưng Đức Phật đã huyền ký rằng: "Thời mạt pháp
ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc quả ..." Nếu còn ở trong Tam-giới,
dù lên được cõi Trời, làm Thiên tử, khi hưởng hết phước vẫn phải theo
nghiệp ma, tức những nghiệp ác cũ đã chồng chất từ muôn kiếp mà đoạ vào
đường dữ .

Tại sao vậy ?

Vì, dù người hay trời đều có hai thứ nghiệp lành và dữ. Nếu khi hưởng hết phước lành, thì chỉ còn có
nghiệp dữ thì phải rơi xuống. Vì trên Trời được gọi là Thiên Đàng nơi đó
vui sướng lắm. Các vị Trời hưởng thú vui ngày đêm không ngừng nghĩ,
nhiều người chẳng lo tu hành nữa. Cho nên khi hưởng hết phước lành, thì
chỉ còn nghiệp dữ, khi thọ mạng hết liền rơi thẳng địa-ngục, trừ vị nào
biết tu tập tiếp. Chắc chư vị còn nhớ Trí-Húc Đại-sư nói, nếu nghiệp dữ
của chúng sanh có hình tướng, thì nghiệp ấy đã chất chồng đầy cả hư
không bao la, đầy cả bầu trời rồi. Vì chúng ta đã sống Vô-Lượng kiếp
rồi.

Nếu còn ở trong Tam-giới là còn phải luân hồi .

Thời này, theo lời Phật dạy, chỉ có Pháp môn niệm Phật mới ra được khỏi
Tam-giới. Nhưng người tu niệm Phật, cũng phải tu đúng cách, nghĩa là
phải phát Bồ-đề-Tâm, nguyện tu thành Phật thì mới chắc được Vãng Sanh.
Nên Phật Thích-Ca xác quyết: "Vãng Sanh đồng ý nghĩa với thành Phật.
Vãng Sanh tức là Thành Phật".

Khi viết xong phần này, chúng tôi nhận được sách Khai Thị, Hoà-Thượng Tịnh-Không nói: "Người thật sự phát
tâm Bồ-Đề, khi lâm chung, một niệm hoặc mười niệm quyết-định, sẽ được
Vãng Sanh. Vì sao ? vì họ đã là người Thượng-Thiện-Nhân rồi, đầy đủ
phước đức rồi. Chỉ cần chợt khởi tâm muốn Vãng Sanh là được ngay".

Trí-Húc Đại-sư nói: "Một lần sanh ở đây là được bổ lên ngôi Phật". Thế thì,
người dân ở Cực-Lạc, hết thảy đều là "Người Nhứt Sanh thành Phật", người
nào cũng quyết là thực chứng ngôi Nhứt Sanh Bồ-Xứ, ngang hàng với
Bồ-Tát Di-Lặc, Quán-Thế-Âm".

Kết lại, nếu chư vị nào đồng quyết
tâm Bồ-đề, nhứt định niệm Phật để thành Phật, thì chắc chắn chư vị ấy
sẽ Vãng Sanh và, Vãng Sanh đồng nghĩa với thành Phật, như Đức Phật
Thích-Ca đã nói nơi trang 30 Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật .

Chúng tôi mong mỏi và thầm cầu nguyện Đức Bổn Sư Thế-Tôn, Đức Từ Phụ A-Di-Đà
và chư Đại Bồ-Tát gia hộ cho ý kiến chúng tôi rằng: "Mỗi một liên-hữu đã
đọc sách nầy đều tự tâm thệ nguyện rằng: "Ngày nào con Vãng Sanh
Cực-Lạc, được ngôi Bất-thối-chuyển, trở thành bực Đại Bồ-Tát chứng
Vô-Sanh-Nhẫn có đủ thần thông và ngũ-nhãn v.v...nếu con trở lại Ta Bà
này mà không bị hôn mê, quên mất tánh-giác, con nguyện liền trở lại Ta
bà này độ tất cả chúng sanh đang đau khổ. Xin chư Phật, chư Đại Bồ-Tát
gia hộ".

Nếu tất cả chư vị đọc sách này đồng một lòng nguyện
thệ như vậy, thì tương lai sẽ có thật nhiều, gọi là vô số đại Bồ-Tát từ
Cực-Lạc, trở về đây độ vô số chúng sanh. Tới lúc Phật Di-Lặc giáng thế,
chúng ta sẽ tiếp tay với Ngài, biến cõi uế-độ Ta bà thành cõi Tịnh-Độ
vậy!

Do đâu chúng tôi khuyên chư Liên-hữu như vậy ?

Vì trong sách Niệm Phật Thập Yếu của Hoà-Thượng Thích-Thiền-Tâm có đoạn (trang 59) gợi ý chúng tôi như sau:

Bởi khi chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sanh tất bị hôn mê, dễ quên tâm nguyện tu hành kiếp trước .

Kinh nói:

Bồ-Tát còn mê khi cách ấm

Thanh Văn còn muội lúc ra thai".

"Cách ấm" là trải cách từ ấm thân này sang ấm thân khác . Như thân hiện tại
là tiền ấm, chuyển sanh thân kiếp sau là hậu ấm; trải qua sự xen cách từ
thân trước đến thân sau như thế, bậc Bồ-Tát chưa đắc quả bị hôn mê.
Trong Kinh có nơi khác lại nói: "Hạng phàm phu khi nhập thai, trụ thai
và xuất thai đều bị hôn mê. Bậc Chuyển-luân-thánh-vương do phước báu,
lúc nhập thai thì biết, khi trụ thai, xuất thai phải bị hôn mê. Hành
Thanh Văn lúc nhập thai, trụ thai đều có thể tỉnh biết, song khi xuất
thai lại bị hôn mê. Duy có bậc Bồ-Tát chứng Vô-sanh-nhẫn, lúc nhập thai,
trụ thai và xuất thai đều tỉnh giác".

Đây là chỗ chúng tôi đề-nghị chư Liên hữu nguyện khi chứng Đại Bồ-Tát Vô-Sanh-Nhẫn sẽ sanh trở lại Ta bà độ chúng sanh.

Những điều nhắc nhở khi tu Niệm Phật

Pháp môn niệm Phật là pháp môn tối thượng tối thắng. Cho nên nếu chư
liên-hữu giải-nghĩa cho một người hiểu pháp môn này, nếu họ chịu tu
theo, công đức của chư liên-hữu, thật vô-lượng. Theo Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật, (trang 36) người ấy tuy đã quy y Tam-Bảo, nhưng chính chư
liên-hữu là người đã trực tiếp khai sanh tánh mạng tuệ giác của người
ấy, dù cả hai đều là đồng tu. Chư liên-hữu chính là một Thiên-Tri-Thức
vậy.

Nhưng, khi gặp một người không tin vào Pháp môn Niệm Phật,
người ấy khởi tâm tranh cãi, thì chư liên-hữu nên lập tức dập tắt tranh
cãi và rúy lui ngay. Đây là lời dặn tuyệt đối nên nhớ, không tranh cãi.

Tại sao không tranh cãi ?

Vì bản nguyện của Đức Phật A-Di-Đà quá thâm diệu, phi thường. Khi chư vị
tranh cãi, dù chư vị không cố ý hại ai; nhưng người kia vì háo thắng,
dành phần hơn, vô tình xúc phạm đến Đức Phật A-Di-Đà, vô tình pham tội
huỷ báng Phật pháp, xúc phạm uy danh Đức Phật sẽ pham vào những quả
Địa-Ngục không có ngày ra. Vô-tình chúng ta tranh thắng mà làm hại
người.

Khi Đức Phật hiện tiền, Ngài Tu Bồ-Đề, đệ tử lớn của
Phật, trước khi đi xin ăn Ngài quán chiếu xem hôm nay sẽ gặp ai ? Nếu
người Ngài sẽ gặp, trong kiếp quá khứ đã cùng người đó có những ân oán,
mà nếu bây giờ gặp lại, do duyên xưa người đó sẽ nổi sân giận tạo thành
quả Địa-Ngục cho người đó, thì Ngài thà rằng hôm ấy nhịn đói, chứ không
khất thực .

Khi chúng tôi viết sách Lưu-Xá-Lợi, có người phê
bình chúng tôi viết sai, phàm phu làm gì có Xá-Lợi. chúng tôi nghiêm cứu
kỹ lại thấy mình viết đúng, một người tu niệm Phật được nhứt tâm, họ
được định, cái định này tạo cho xương cốt, tim, răng v.v...thành vật
cứng, cộng với những phần thiêng liêng tạo thành nên Xá-Lợi . Khi niệm
Phật được định là tuệ phát sanh.

Tuy biết mình viết đúng, nhưng trong sách này chúng tôi không trả lời, vì người viết kia đã nuôi dưỡng
tâm sân hận; nếu bây giờ chúng tôi trả lời càng gây thêm sân hận; chúng
tôi cũng có lỗi. Thôi thà rằng nín thua là tốt nhứt .

Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm giảng nói ở trang 80, như
sau: "Khi xưng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu
chánh-định Như-Lai, tự-nhiên phát sanh tuệ-giác Không Tánh ...".

Vả lại, khi viết sách, chúng tôi chỉ là người thu nhập tài liệu, rồi viết
lại. Chúng tôi đã tốn nhiều công phu gạn lọc hẳn hòi, chất vấn đủ điều
rồi mới đăng, và tất cả đều đã được chư Tôn-Đức Tăng Ni chứng nhận.
Chúng tôi chưa hề sáng tác chuyện nào hết.

Có người còn nói Xá-Lợi ấy kết tinh do bịnh ung thư. Thật sự ung thư là kết quả của sự hư
hoại trong cơ thể . Vậy làm sao có được màu sắc đẹp đẽ lóng lánh ?

Sở dĩ có người nói do ung thư, là vì bài của chúng tôi có phân tách nói,
do người bịnh biết mình mắc bịnh ung thư, biết mình sẽ chết, nên tập
trung tinh thần nhứt tâm niệm Phật mà sớm được định .

Vào đầu tháng 5 năm 2002 vừa qua, chúng tôi cảm thấy đau ở bụng, phía dưới gan.
Bác-sĩ đưa đi làm siêu âm thì thấy có cái gì nổi dài hai phân, nghi là
ung-thư hay bướu ở túi mật. Được tin này chúng tôi không một chút
lo-lắng và mừng thầm trong bụng. Bởi nếu quả là ung-thư, thì chúng tôi
sẽ buông bỏ mọi chuyện, quyết sẽ nhứt tâm niệm Phật. Bởi vì không có
thời điểm của ngày chết, thì chúng ta sẽ lần lựa ngày tháng.

Dù sao chúng tôi đều cám ơn chư vị ấy. Chư vị ấy đã giúp chúng tôi học hỏi
thêm. Như trong sách này có chuyện Xá-Lợi của cụ bà Diệu-Hỷ ở Sydney
Úc. Khi cụ bà lâm chung có Đại Đức Thông Hoàng (thuộc Thiền Tông), ở
Hiện Quang Thiền-Viện đến khai thị, và kế tiếp là Đại Đức Thích-Phước
Tấn chùa Quang-Minh đến làm lễ .

Xá-Lợi của cụ Diệu-Hỷ được
Tăng Ni 4 chùa công nhận và được trình bày liên-tiếp và lưu giữ ở các
chùa ấy Quang-Minh, Quảng-Đức và Hiện Quang Thiền-Viện.

Đặc biệt cụ Diệu-Hỷ có người con trai cả uyên thâm Phập pháp và một người
con thứ xuất gia trước tu Tiểu-Thừa, sau tu Thiền. Vị này hoàn tục sau
khi miền Nam mất. Sau khi thấy mẹ mình niệm Phật có Xá-Lợi, người con
thứ liền cạo đầu để ta tội với Phật và mẹ. Hình ảnh và sự kiện do chính
đương sự gởi đến cho chúng tôi làm bằng (xin xem bài đăng ở phụ đính).

Từ giờ phút này chúng tôi không dám tranh cãi nữa . Chúng tôi học hỏi theo lời dạy của cổ nhơn:

"Lửa sân si tam độc

Đốt hết rừng công đức

Muốn hành Bồ-Tát-đạo

Giữ thân tâm nhẫn nhục"

Chư Tôn Đức Dạy chúng ta Niệm Phật Thế Nào Phải Cách ?

Trong sách "Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi" chúng tôi
đã ghi lại những cách niệm Phật của chư vị đã được Vãng Sanh, nghĩ rằng
chư liên hữu có thể nghiền ngẫm cách thức niệm Phật của mỗi một Bồ-Tát
đã Vãng Sanh rồi đem áp dụng cho mình.

Nhưng, sách gởi đi khắp nơi, một thời gian ngắn vẫn có nhiều người hỏi nên niệm Phật như thế nào
chắc được Vãng Sanh ? Thế là chúng tôi phải tìm tòi, nghiên cứu viết
sao cho chư vị ấy dễ áp dụng.

Các bực cổ -đức có dạy rất nhiều cách niệm Phật. Nếu viết hết ra đây chắc chư liên hữu càng rối rắm thêm,
nên ở đây chúng tôi chọn lựa vài cách. Chư liên hữu nên áp dúng thử các
cách dưới đây và chọn lại cách nào thích hợp với mình. Chúng tôi cũng
ghi lại vài câu chuyện để chư liên hữu rút lấy kinh-nghiệm .

Dưới đây là cách dạy của chư Tôn-Đức .

Vĩnh -Minh Đại -sư: Ngài dạy, mỗi ngày ngoài một muôn câu Phật hiệu, còn
phải tu các hạnh khác gồm 108 môn. Đây là viên tu của bậc Thượng Thượng
Căn.

Ấn-Quang Đại-sư: Dạy hành giả tu Thuần Tịnh, nghĩa là chỉ
chuyên niệm Phật, không xen tạp môn nào khác. Khi niệm Phật nên dùng "Ký
Thập Trì Danh", nghĩa là niệm một hơi lấy mỗi mười câu làm đơn vị rồi
ghi số. Người hơi ngắn có thể niệm thành hai lượt mỗi lượt 5 câu. Niệm
mỗi mười câu, lần một hạt chuỗi. Niệm cách này, tâm phải tập trung vào
niệm Phật, mà còn phải nhớ lần chuỗi, ghi số. Cho nên tâm phải chuyên.
Cách này có thể gọi là công cứ niệm Phật, hoặc cổ châu trì danh.

Điều quan trọng là phải giữ định số mỗi ngày, không tham lam nhiều hơn, hoặc bê trễ ít hơn.

-Ngẫu-Ích Đại-sư:

Muốn đi đến cảnh giới "Nhứt Tâm Bất loạn" không có cách chi kỳ diệu khác.
Trước tiên hành giả cần lần chuỗi ghi số, niệm niệm rành rẽ rõ ràng, mỗi
ngày hoặc ba muôn, năm muôn, cho đến mười muôn, giữ khoá trình quyết
định chẳng thiếu, thề một đời không thay đổi.

Niệm như thế lâu ngày thuần thục, không niệm vẫn tự niệm, chừng ấy ghi số hay không ghi
số cũng được (Ngài Ngẫu-Ích niệm một hơi mười Phật hiệu, thành một niệm
Người già không nên áp dụng).

Đạo Nguyên Pháp Sư: Nếu rèn luyện
cho tinh thuần, mỗi ngày hành giả có thể niệm muôn câu Phật hiệu .
Nhưng phải y theo mấy điều kiện:

1. Phải ngồi mà niệm . Tuy đi đứng nằm ngồi đều có thể niệm Phật, nhưng muốn niệm cho mau mà vẫn nghe
được rành rẽ rõ ràng, thì nên ngồi mới thích hợp .

2. Nên dùng chuỗi nhẹ và lấy mười câu làm một đơn vị . Bởi niệm mau mà mỗi câu đều
lần một hạt chuỗi, e tay lần không kịp, dù có kịp cũng dễ bị chứng đau
gân tay và mỏi nhức chả vai.

3. Chỉ niệm bốn chữ A-Di-Đà Phật, rút ngắn chữ, có thể lên đến một muôn năm ngàn câu.

4.Phải niệm theo lối Kim-Cang-Trì, nghĩa là chỉ sẽ động môi mà thôi. Nếu
niệm thầm hoặc ra tiếng, sợ e niệm không được mau, và khi cổ động cho
tiếng phát ra khỏi miệng phải mất một khoảng thời gian. Niệm ra tiếng
một muôn câu, đổi lại niệm theo lối Kim-Cang-trì, có thể lên đến hai ba
muôn câu.

Từ Vân Pháp Sư

Đây là cách niệm Phật "Nhập Phẩm" của Ngài Từ Vân. Căn cứ theo
Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, Ngài chế ra cách niệm Phật này dành riêng cho
người quá bận việc, có thể niệm Phật và Vãng Sanh Cực-Lạc. Phương-pháp
này gồm có mười niệm, mỗi niệm là một hơi thở, mật ý đi về chỗ "mượn hơi
nhiếp tâm". Người hơi dài có thể một hơi niệm mười mấy câu, kẻ hơi ngắn
chỉ bảy, tám câu cũng được. Cứ mỗi hơi niệm Phật là một niệm . Sau khi
niệm xong mười hơi, tiếp tục đọc bài kệ hồi hướng như sau:

Nguyện Sanh Tây-Phương cõi Tịnh-Độ

Mẹ cha là chín phẩm sen lành

Hoa nở thấy Phật ngộ Vô sanh

Độ tất cả loài hàm thức.

Tịnh-Không Pháp Sư

Phần trình bày của Hoà-Thượng Tịnh-Không rất dài, nhưng rất có giá
trị, mong rằng chúng tôi trình bày không sai lạc ý của Ngài (chính vì
vậy mà chúng tôi đã gởi trước sách này qua Úc để nhờ Cư-sĩ Thanh Trí đệ
tử của Hoà-Thượng xem lại dùm. Vì cư sĩ Thanh Trí đã chuyển ngữ và đọc
băng các sách của Hoà-Thượng)

Hoà-Thượng nói:

"Phật có truyền dạy cho chúng ta một phương-pháp vô cùng thù thắng và tiện lợi
để có thể dự vào cảnh giới vô trụ của các Ngài, đó là pháp môn Niệm
Phật. Bồ-Tát trụ ở lục độ, quí vị trụ ở Phật trụ, như vậy là quí vị được
nâng cao hơn đẳng cấp của Bồ-Tát. Thế nhưng, niệm Phật quí vị phải
tương ưng.

Thế nào gọi là tương ứng ?

Mỗi một tiếng niệm Phật, quí vị phải trải lòng từ bi của mình đến với tất cả chúng
sanh trong hư không và lan rộng khắp pháp giới. Mỗi tiếng niệm Phật đều
vì lợi ích cho chúng sanh, đều mang lòng muốn ban vui cứu khổ đến mọi
loài.

Có người hỏi: tiếng niệm Phật của chúng ta, thực tế có
lan rộng đến hư không cách pháp giới không? Khẳng định là được. Trong
kinh, Phật thường nói "tướng không rời tâm, tâm không rời tướng", cái
chơn tâm của chúng ta nguyên gốc của nó rộng khắp hư không, trùm khắp
pháp giới.

Sở dĩ tiếng niệm Phật của chúng ta không hoà nhập
vào với hư không được, vì chúng ta còn nhiều vọng tưởng phân biệt và
chấp trước làm chướng ngại bản năng tự nhiên của mình. Nếu âm ba của
tiếng niệm hoà nhập với âm ba của tâm (chơn tâm) lan rộng vào hư không
tiến sâu vào khắp pháp giới; dù cho chư Phật thuyết pháp ở xa xôi, bất
luận nơi nào, một khi tâm đã lắng đọng không còn chướng ngại, chúng ta
vẫn có thể nghe được âm thanh lời pháp của các Ngài rất rõ ràng .

Cho nên mở rộng tâm lượng trong pháp môn niệm Phật là một phương-pháp rất
vi diệu, rất đặc biệt thì thắng có thể khiến phàm phu trong một kiếp
được bình đẳng thành Phật .

Tóm lại công-phu niệm Phật có đắc
lực hay không chúng ta có thể thấy biết, qua cảnh giới của tâm lượng và
sắc tướng của người đó . Một khi công phu niệm Phật đắc lực rồi, chắc
chắn trên gương mặt của quí vị sẽ luôn toả ra niềm vui an lạc, tự tại,
trong đạo Phật gọi là pháp Hỷ sung mãn .

Làm sao diệt được vọng niệm, vọng tưởng ? Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng trong bài Pháp môn Nhị
Lực (dành cho người "Phật Thất" niệm Phật một ngày).

Bởi suốt một ngày một đêm chỉ duy-nhứt giữ câu A-Di-Đà Phật, tất cả vọng niệm suy
nghĩ khác không còn nữa. Cả phân biệt và chấp trước làm chướng ngại bản
năng tự nhiên của mình cũng không còn nữa . Vọng niệm không còn thì
những việc ác không thể xảy ra. Như vậy là xa lìa tất cả ác . Một câu
vạn đức hồng danh, thiện pháp cao tột của thế -gian và xuất thế -gian,
chúng ta đã chấp trì từng câu liên tiếp không ngừng để tăng trưởng thiện
căn, đó là tất cả điều-thiện. Ý nghĩa câu đạt nhứt thiết Đà-la-ni là
như vậy. Đó là sự chứng nhập Tam-ma-địa còn đạt nhứt-thiết Đà-la-ni,
người Trung Hoa dịch là Tổng Trì là làm tất cả điều thiện, xa lìa tất cả
việc ác.

Khi bước chân vào Niệm Phật Đường, quí vị đã đạt được nhứt-thiết Đà-la-ni, nhưng vừa rời khỏi liền quên mất công phu niệm Phật .

Tuy nhiên, nếu trong một tuần bảy ngày, quí vị có một ngày chuyên nhất niệm
Phật, đạt được tâm không sanh không diệt và đạt nhứt thiết Đà-la-ni như
vậy quý vị cũng đã giỏi lắm. Mỗi tuần một ngày đến niệm Phật đường;
niệm liên tiếp ba năm công phu của quý vị thật đáng nể phục. Nếu có thời
giờ rảnh rổi, mỗi ngày đều đến niệm Phật trong vòng ba năm thôi, quý vị
sẽ thành Phật. Bao nhiêu nghiệp tội trong vô-lượng kiếp đều dứt sạch.

Hoà-Thượng Tịnh-Không có lối dẫn dắt con người vào pháp tu niệm Phật thật hay. Nếu
mỗi tuần chư liên-hữu đến dự Phật Thất một hoặc hai ngày, như cuối năm
vừa qua chúng tôi kêu gọi chư liên-hữu dự Phật Thất tại chùa Long Thiền ở
Cali, thì công phu chư vị sẽ tăng tiến đáng nể phục. Rất tiếc ngay sau
đó Ni Sư Thanh-Hà lâm bịnh, nên việc Phật thất bất thành. Còn như
Hoà-Thượng Tịnh -Không nói, nếu mỗi ngày chúng ta đều đến niệm Phật
trong vòng 3 năm, bao nhiêu nghiệp tội trong vô-lượng kiếp đều dứt sạch,
thì chúng ta sẽ Vãng Sanh thành Phật ngay.







Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 9:06 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:23 am

CHƯƠNG MƯỜI HAI: LÀM SAO CỨU ĐỘ THẦN THỨC THÂN NHÂN GIÚP CHO HỌ ĐƯỢC VÃNG SANH CỰC-LẠC?
[size=14][color=#001500]Chương này thật tối quan trọng . Tại sao
tối quan trọng ? Khi viết sách Sưu Giải, vào đầu sách chúng tôi có nói,
khi nghiên cứu Phật pháp, chúng tôi quyết tìm cho ra câu hỏi then chốt:
"Sau khi chết thần thức con người sẽ đi đâu ?"

Đây là ý chúng tôi muốn biết, do đâu từ là con người lại có thể rơi vào Địa -ngục, Ngạ
-quỷ, Súc -sanh ? Hoặc làm sao từ một người bình thường tức phàm phu,
thần thức có thể lên cõi Phật ?

Chúng tôi đã nói, chúng tôi quyết tìm hiểu điều này, phải hiểu rõ chúng tôi mới tin. Chúng tôi
nghiền ngẫm nhiều năm tìm hiểu sự thật đó. Chứ không mù quáng tin theo
ai. Đức Phật cũng dạy như vậy .

Do không bị ảnh-hưởng của bất cứ vị thầy nào, chúng tôi dựa vào Kinh làm điểm tựa; vị thầy nào giảng
đúng pháp chúng tôi coi như thầy của mình. Cho nên, tuy nói rằng tu
không thầy, nhưng thật sự chúng tôi có rất nhiều vị thầy.

Khi viết đến chương này chúng tôi may mắn được đọc "Kinh Kiến Chính" cũng
gọi là kinh "Sinh Tử Biến-Thức " do Sa-môn Trí-Hải dịch (chùa Quán Sứ).

Trong Kình này, Đức Phật giảng đặc biệt về câu hỏi "Khi sanh từ đâu đến? Lúc chết sẽ về đâu?"

Cho nên chúng tôi mới dám nói, chương này tối quan-trọng . Vì nếu tất cả
Phật tử chúng ta đều được đọc Kinh Kiến -Chính, thì đường tu của chúng
ta sẽ vô cùng chính xác và mọi người đều phải lo tu. Vì tất cả đều sẽ
hiểu rõ thêm rằng: "Tại sao trước đây Đức Phật nói rằng: bỏ thân này,
được lại thân người là khó?."

Mấy chương trước, chúng tôi có đề cập đến việc có vị xuất gia cho rằng quí vị ấy nguyện, sau khi chết sẽ
trở lại tu tiếp, để độ chúng sanh. Đọc hết Kinh chúng tôi càng thấy rõ:
"Chuyện ấy khó thành".

Vì chương này chúng tôi nói về việc hướng dẫn thần -thức một người sắp chết, hay đã chết, để thần-thức ấy
được Vãng Sanh Cực-Lạc . Chúng tôi không có khả năng dạy việc này. Nhưng
Kinh Phật và sách Liễu Sanh Thoát Tử có viết, chúng tôi làm việc sưu
tầm và sắp xếp để chúng ta cùng thấy rõ ràng.

Đây xin nói vấn-đề Đức Phật dạy về thần thức sau khi chết. Chuyện này hơi dài, nhưng
nếu không hiểu sẽ uổng phí cuộc đời tu hành. Chúng tôi cố gắng trình
bày cho dễ hiểu, nhưng chư vị cũng ráng vận dụng trí, để dễ hội thông
lời Phật dạy.

Kinh này tên là Kinh Kiến-Chính, do một đệ tử tên Kiến-Chính hỏi, Phật dạy nên lấy tên làm Kinh.

Pháp nội này diễn ra dưới gốc một cây lớn, rễ sâu, gốc to, cành lá um tùm,
hoa quả đỏ ối. Tên cây là Hương Cảm. Khi ấy Kiến-Chính có một mối nghi
và muốn hỏi Phật rằng:

-Phật thường nói, hết đời này rồi, lại
còn có sanh sang đời sau nữa. Như thế mà từ xưa đến nay biết bao nhiêu
người chết đi không hề thấy một người nào trở về nói cho biết rõ mọi sự,
vậy làm sao hiểu rõ việc ấy? Nay ta cần phải đem hỏi Phật mới được .

Ông ta chưa kịp hỏi, Đức Phật đã biết và bảo đệ tử rằng:

-"Hởi các đệ tử! Cái cây này, trước kia chỉ có một hạt giống, sau nhờ tứ đại
(đất, nước, gió, lửa) và mọi duyên ngoại giúp cho, dần dà nở ra lớn lên,
thành cây to cao, che cho được cả bấy nhiêu người. Lúc nó còn là hạt
giống, chưa hề ai trông thấy thân thể cành lá hoa quả đâu cả, đến lúc
nhờ đủ mọi duyên giúp cho không ngớt, liền nở ra mầm, cho đến sanh ra
dọc lá cành cây, hoa hột nhiều gấp mấy cũ. Kể từ khi thành cây này có
rất nhiều sự biến chuyển đổi đời. Như mới lúc đầu, chỉ mới là hạt giống,
hạt giống ấy nở thành mầm, mầm nẩy ra dọc, dọc sanh ra lá, cành lá nở
ra hoa, quả; hoa quả kết lại thành hạt, vòng quanh biến đổi, mổi lúc mỗi
khác hình thể trước sau, không lúc nào giống nhau, duy không lìa bỏ
chất cũ mà thôi, cả cái tên đó cũng không là cái hạt, vẫn thường gọi mà
thành ngay cái cây cao lớn ấy. Cây lại sanh ra quả, quả lại có hạt nở
thành cây, cứ theo năm, tháng, thêm dần mãi mãi lên, như thế đến
vô-lượng, vô-số, không biết bao nhiêu mà kể".

Phật lại bảo:

- "Này các đệ tử . Nay muốn dồn tất cả các thứ hoa, quả, cành, gốc rể lại cho thành hạt giống có được không ?"

Các đệ tử đều nói:

-"Bạch
Phật không thể được . Vì nó đã biến chuyển nhiều rồi, không thể nào lại
quay trở lại như cũ nữa, có ngày còn bị mục nát hết, còn hạt giống lại
sanh ra cây khác, cứ thay đổi như thế mãi, không biết đến đâu là cùng
cực . Mỗi lần biến -chuyển lại một lần thân cây bị mục nát, không bao
giờ lại trở lại thành hạt giống cũ được".

Phật bảo:

-
"Này các đệ tử! Sanh tử cũng như thế đấy, thần thức là pháp khởi đầu
tiên, mà sanh ra pháp ấy lại chính là Si, nghĩa là vì ngu si sanh ra say
đắm. Vậy Si cũng như hạt giống của cây kia, hạt nó tuy nhỏ nhưng đủ sức
thành cây lớn . Do gốc ở ngu si mà sanh ra không biết bao nhiêu nhân
duyên".

Tỳ-Kheo Kiến-Chính nêu ra điều hồ nghi và Xin Phật cho
biết, tại sao người chết, không thấy thần thức trở về đối diện, bảo cho
biết rõ những nghiệp thiện ác là sao ?

Phật nói: "Thần thức không có hình tướng nhưng mỗi khi dời chuyển là phải theo với hành
nghiệp. Sinh thời làm Thiện, thì chuyển sanh đi đến chỗ Phước. Thần-thức
dời chuyển ở trong thân Trung ấm cũng như quặng nấu thành sắt, từ Trung
ấm chuyển sang thân khác, cũng như sắt đã chế thành đồ, hình cũ tiêu
đi, thể chất đổi khác. Vậy cái biết (Thần thức) lúc đó thay đổi rồi,
không còn nhớ những việc trước nữa".

Như lời Phật dạy, cái biết tức là Thần thức, từ giai đoạn thân Trung ấm chuyển sanh thân khác,
hình tướng tức thân xác tiêu mất, thể chất đổi khác, bởi phải theo với
nghiệp thiện ác của mình đã tạo ra như thế nào thì phải theo đấy để
hưởng thụ lấy quả báo, hoặc tội, hoặc phước, không còn nhớ những việc
trước nữa .

Thần thức chuyển dời đi theo với nghiệp, để mang lấy thân, như đất nung lâu biến thành sành; người không có đạo hạnh,
không có thần thông sáng suốt hoàn toàn, không thể nào biết được các
việc trước, không thể nào báo cho nhau biết mọi việc được .

Đối với một kẻ đã có tu, Đức Phật nói:

-"Người nào chưa tu chứng được đạo quả, không có mắt trong sáng suốt, thì lúc
thân chết đi, thần thức phải theo nghiệp mà biến hoá đổi dời, mang lấy
thân khác, khi đã qua thân đổi khác, lại phải chịu ở trong bào thai, tất
nhiên mọi sự thấy biết cũng đều khác hết, nên không còn nhớ đến những
việc cũ nữa".

Đức Phật nói tiếp:

-Thần thức vốn không
có hình tướng, ví như nước đựng trong cái bình tròn, thì thể nó theo
hình tròn, nếu chuyển đổi sang cái bình hình vuông, thì cái thể nó đổi
ra vuông, lớn nhỏ cong thẳng, đều là theo ở chỗ đổ vào.

Xin đọc tiếp dưới đây để hiểu về Thần-thức, và nó có thể mang tất cả
hình-tướng; thí dụ như mang hình thú, hình quỷ v.v...Hãy nghe Đức Phật
nói:

- Này các đệ tử! Sinh tử cũng như thế đấy, Thần-thức vốn
nó như hư-không, không có hình tướng nhứt định, chỉ tuỳ theo nghiệp
thiện ác, hễ tạo nên nghiệp gì thì mang thân ấy...biến đổi đều theo với
nghiệp mà đi, cũng như hình thể của nước tuỳ theo ở đồ đựng.

Nếu như trong khi làm người, làm những việc trái phép (ác), lúc chết thần
thức sẽ phải sa vào làm kiếp súc-sanh hay địa-ngục, mang thân xấu xa ngu
dốt, quên hết mọi việc trước....

Về quả địa-ngục hay súc -sanh, Đức Phật nói thêm như sau:

-
Người ta ở đời, nếu lòng nghĩ ác, miệng nói ác, thân làm ác, thì lúc
chết, thần thức biến chuyển, đi theo với nghiệp làm thân địa-ngục, thân
súc-sanh, hoặc thân tôm cá, sâu bọ tuỳ theo chỗ ở ...

Đọc Kinh Kiến-Chính, hiểu rõ về Thần thức khi lâm chung chúng ta mới thấy điều lo
sợ đến hãi hùng. Như chúng tôi đã trình bày theo lời Đức Phật dạy,
Thần-Thức đều tuỳ theo nghiệp gì thì mang thân nấy. Như trong bài Kinh
A-Hàm mà chúng tôi đã đăng nơi trang 23 sách Sưu Giải, một người
Ba-la-Môn hỏi một đệ tử của Phật rằng:

- Thưa Tôn giả, có phải Sa-môn Cù-Đàm dạy người tu Thập Thiện, sau khi mạng chung được sanh lên cõi trời ?

Vị đệ tử đáp:

- Vâng, Thế Tôn dạy đúng như vậy.

Sau khi trả lời, vị đệ tử thấy ái ngại trong lòng, về tịnh xá trình mọi sự với Phật, và hỏi:

- Bạch Thế Tôn, con xác nhận như vậy có phỉ báng Thế Tôn không ?

Đức Phật trả lời:

- Ông nói như vậy là phỉ báng ta!

Và Đức Phật phân tích:

-
Tu Thập Thiện là cái nhân sanh lên cõi trời . Nhưng nếu người tu Thập
Thiện đến giờ phút lâm chung gặp những điều bất như ý, khởi tâm bất mãn
sân giận. Cận tử nghiệp của người đó ác, không đủ phước sanh lên cõi
trời, nên khi mạng chung họ không lên cõi trời, hoá ra ta nói dối sao ?
Lại nữa, nếu người đó quá khứ tạo nghiệp ác nhiều, mà hiện tại họ tu
Thập Thiện mới năm ba năm, nghiệp ác quá khứ chưa hết, nên khi chết họ
chưa đủ phước sanh lên cõi trời. Ông nói như thế không phỉ báng ta là gì
?

Theo chúng tôi, tất cả Phật tử nên chú tâm thật kỹ về lời
Đức Phật dạy "đến giờ phút lâm chung gặp những điều bất như ý, khởi tâm
bất mãn sân giận Cận tử nghiệp người đó ác ...". Thưa chư Liên-hữu, theo
Kinh Kiến-Chính, Cận tử nghiệp ác, Thần-thức phải sa vào địa-ngục.

Như trên đây, một đệ tử Phật nghe Phật giảng xong, ra ngoài trả lời một
Bà-la-môn, đã trả lời sai, bị Phật nói: "Ông nói như thế không phỉ-báng
ta là gì ?"; vậy mà thời này có người không theo kinh điển mà dẫn dạy
người khác, tránh sao khỏi tội phỉ báng Phật pháp ?

Đọc đoạn kinh trên đây, và nghe lời Trí-Húc Đại-sư nói: "Nếu nghiệp ác của chúng
sanh có hình thể thì nghiệp ác của mỗi chúng sanh chất chồng đầy kính cả
hư không".

Vậy thì, dựa theo sự kiện chúng tôi vừa nêu và theo
sách Liễu Sanh Thoát Tử, chúng sanh chúng ta sống ở các nước Tây
Phương, thí dụ như ở nước Mỹ, sau khi lâm chung dễ sa vào đường dữ .

TẠI SAO ĐÁNG SỢ VẬY ?

Đây là sự thật, chúng tôi nói ra để mọi người trong chúng ta cần
hiểu và suy nghĩ điều chúng tôi trình bày dưới đây cho thật rõ ràng,
tường-tận:

Sách Liễu Sanh Thoát Tử viết: "Sau khi lâm chung
trong vòng tám giờ chớ nên động đến thân thể người chết". Vì nếu động
đến thân thể, thì thần thức sẽ đau đớn nổi sân giận . Cận tử nghiệp sẽ
ác, đây là cái nhân xấu.

Chúng tôi đã tìm hiểu nhiều trường-hợp của những người chết ở Mỹ. Trừ những người chết tại nhà thương, đa số
người chết ở nhà, có người đã trên 80 tuổi nhiều bịnh hoạn, vậy mà sau
khi chết, cảm sát vẫn đến chở xác đi khám-nghiệm vì họ sợ người chết bị
giết, bị đầu độc. Thân thể bị chuyển động và còn bị mổ xẻ khám nghiệm.
Thần thức người chết cảm thọ sự đau đớn, nhân đó mà sanh ra sân hận,
phải đoạ vào ác đạo.

Từ hai năm qua, tâm chúng tôi cứ bị thôi thúc phải nói lên sự thật này, nhưng rồi lại ngại ngùng.

CÁI GÌ THÔI THÚC ? NHƯNG TẠI SAO CÒN NGẠI ?

Điều thôi thúc phải nói lên sự thật là, từ lâu nay đa số người tự
cho mình là người theo đạo Phật, Phật pháp cũng hiểu khác; nhưng về vấn
-đề sanh tử trọng đại thì hoàn toàn chẳng quan tâm gì, hay nói rõ hơn là
chẳng hiểu gì cả. Thí dụ: trong một gia-đình có người vừa chết, như ở
trên chúng tôi vừa hé lộ, nếu thân nhân thật sự là người biết về đạo
Phật và biết đạo đầy đủ, thì chẳng phải chỉ biết lo chôn cất theo thông
lệ từ lâu nay, mà phải biết lo sao cho thần thức, tức hồn người chết,
được thoát khỏi các đường dữ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh; mà phải
biết chu toàn làm sao giúp cho Thần thức của người chết không rời vào
đường dữ, mà còn có thể thoát khỏi Tam-giới lên cõi Phật .

Ngày nào đọc báo gần như cũng thấy cáo phó, và cuối tuần có nhiều người được
chôn cất . Đó là điều thôi thúc chúng tôi nên nói với thân nhân các
gia-đình người theo đạo Phật phải hiểu rằng, nếu các vị có cha mẹ, anh
em chết mà không lo trợ niệm đúng theo nghi thức Phật dạy, vô tình các
vị gây hại cho thân nhân mình!

Vì sao ?

Đây là điều khiến chúng tôi ngại ngùng . Vì nếu nói thẳng ra hết, là cả một sự đảo
lộn lớn lao. Cho nên chúng tôi bị ray rứt vô cùng . Biết mà không nói,
lòng không an; mà nói ra người ta có tin theo hay không, có can đảm thực
hành để cứu vãn thân nhân quý vị ấy không ?

Như những trang trước đây, chúng tôi đã trình bày, một người không hiểu đạo, khi chết
thần thức (tức linh hồn) rất dễ rơi vào ba đường dữ, bởi một trong sáu
điều sau đây:

1. Chết tại nhà thương - Theo đạo Phật, một người
chết phải để yên không được động thân-xác trong 8 tiếng đồng hồ, trong
thời-gian này không thể tắm rửa thay quần áo; vì nghiệp thức chưa hoàn
toàn rời thân, bị xúc động phải cảm thọ sự đau đớn, sanh sân hận, thần
thức người đó phải đoạ vào ác đạo.

2. Chết tại nhà - Trừ trường-hợp đặc biệt, cảnh sát sẽ cho chở đi khám-nghiệm, phải bị mổ xẻ.
Thân xác bị động nhiều sẽ gây nhiều đau đớn hơn, cũng giống như điều
một.

3. Thần-thức theo nghiệp thọ sanh - Bình thường một người
sống ở đời hay làm nhiều việc thiện hay việc ác. Sau khi chết, thần thức
của người này sẽ tuỳ theo nghiệp cảm mà thọ báo. Cận tử nghiệp vào giờ
chót sẽ tuỳ theo duyên nghiệp lúc lâm chung. Như kinh nói, trong đời
người ấy làm thiện nhiều hơn ác, nhưng mà nghiệp ác quá khứ vẫn còn
nhiều, chẳng may khi chết gặp duyên không tốt, khiến người đó sanh sân
giận, Cận tử nghiệp ác mạnh hơn, vì sanh tâm sân giận, thần thức biến
chuyển đi theo với nghiệp ác làm thân địa-ngục. Đại sư Trí-Húc nói:
"Nghiệp ác của một chúng sanh nếu có hình tướng, nó sẽ chồng chất đầy cả
hư không". Theo ý Đại-sư: "Một người biết tu niệm Phật cầu Vãng Sanh
Cực-Lạc, một câu niệm Phật sẽ được trừ tám mươi ức kiếp sanh tử. Dù vậy,
nếu người ấy niệm Phật liên tiếp một trăm năm cũng chưa hết nghiệp ác
đã tích trữ từ Vô-lượng Vô-số kiếp".

Cho nên nghiệp ác của bất cứ một chúng sanh nào cũng đầy dẫy như vậy, nếu người ấy không biết tu
đúng cách, thì khi lâm chung rủi "sơ sảy" dễ bị rơi vào ba đường dữ (chỉ
có niệm Phật mới thoát được thôi!)

4. Oan gia đòi nợ - "Nhà
Phật thường dạy cho chúng sanh biết về luật nhân quả . Và như luật
thế-gian cũng vậy, giết người phải đền mạng". Mấy mươi năm chiến tranh
Việt-Nam, quân-nhân hai miền Nam Bắc đã giết nhau vô số. Bên nào cũng
đều nhơn danh đất nước mà giết nhau. Người giết nhiều, được lập công
khen thưởng. Nhưng sau khi chết, người giết nhiều phải vay trả nhiều.

Trong bài giảng của Pháp sư Tịnh-Không: "Nhạc Phi và cả gia-đình đều là bực
trung quân ái-quốc nêu danh sử nước Tàu; nhưng sau khi chết, đến nay
thần thức vẫn còn sống trong Quỷ đạo mà vẫn chưa được trở lại làm
người".

Những người cựu quân-nhân Việt-Nam, nếu chẳng biết cách
tu đúng, để dọn đường trước cho lúc lâm chung, vẫn phải theo luật nhân
quả, và cũng phải như Nhạc-Phi.

Người dân thường, làm ác giết người cũng phải tuỳ theo nghiệp ác mà thọ quả .

5. Giết để ăn, cũng phải đền mạng!

Đức Phật thường dạy để tự về tham-sân-si. Con người do lòng tham mà thường
xảy ra tranh-chấp, chiếm lấy, mà có chấp -tranh. Đó toàn là nghiệp ác,
và cũng là kết quả của ngu-si, sân giận. Trong các cái tham có sự tham
dục.

Con người thì tham lam nhiều lắm, song chỉ cần nói về tham
dục, trong đó có thực dục, những đòi hỏi về ăn. Những con vật mà chúng
ta giết để ăn như gà vịt, bò dê, tôm cá, cua, rắn cũng đều từ thần thức
của những con người có Phật tánh . Theo luật nhân quả, gieo nhân xấu gặt
quả xấu, giết ăn thì phải trả mạng. Nếu ai đọc sách nhà Phật, thì đều
nhớ các chuyện oan hồn đòi mạng . Phạm vi sách này không thể đăng lại
đầy đủ, nhưng chúng tôi nhắc đến trường-hợp gia đình bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết
trong sách Lưu-Xá-Lợi .

Sở dĩ chúng ta không thấy nhan nhãn trước mắt những vụ đòi mạng bởi các lý do:

a. Như Kinh Kiến-Chính nói, thần-thức người chết không về báo cho biết được, dù đã bị đòi mạng.

b.Những con vật bị giết có thể không đòi mạng ngay trong một kiếp, vì
chúng phải làm kiếp thú hàng triệu triệu năm, trong khi chúng ta cũng
luân hồi lặn hụp trong các nẻo; nhưng khi thuận duyên ta liền bị chúng
đòi mạng lúc nào ta cũng không hay biết được. Điều này nói ra nhiều
người không thể tin. Đây là chỗ chúng tôi ngần ngại, nếu không nói hết
điều mình biết thì không được, mà nói thì mang tiếng hù thiên hạ hay sẽ
bị nói: "Ông già này điên rồi", hoặc sẽ bị nói: "ông già này mê tín dị
đoan!" Tuy nhiên, chúng tôi thấy cần nói thẳng ra trong lần này, vì
chúng tôi không cần tự lo cho mình, muốn danh thì giờ để tu, nên sẽ
không viết nữa . Dù mang tiếng ông già điên cũng viết, vì ít ra cũng
giúp được vô số người. Những ai chịu tin và áp dụng "Pháp môn Niệm
Phật", dựa vào oai-thần và nguyện -lực của Đức Phật A-Di-Đà mà tránh
được sự đòi mạng, vĩnh viễn không còn lo sợ nữa . Bấy nhiêu đó cũng đủ
làm vui chúng tôi.

c. Như đã nói, sự đòi nợ của oan-gia trái
chủ không xảy ra trong một đời, mà có khi nhiều kiếp, như trường-hợp
Quốc sư Ngô Đạt, mà Hoà-Thượng Tịnh-Không kể; Ngài Ngô ĐẠt tu tới bực
cao vẫn còn bị oan gia theo đuổi bào thù trong mười kiếp. Cho nên, nếu
chúng ta còn luân hồi ở trong Tam-giới này là còn bị oan-gia trái chủ
đòi nợ. Bởi vậy Đức Phật mới dạy: "Là Phật tử tu phải vượt Tam-giới."

6. Ung-thư cũng là hình thức báo thù ?

Thêm một điều nữa, trong cuộc đời chúng ta, hẳn ta đã giết vô số kiến, dán,
ruồi, muỗi và những con vật bé nhỏ khác như bò chét. Chúng thường gây
hại, hay cắn chích ta...Nhưng giết chúng vẫn là sát sanh, là giết mạng.
Giết mạng người hay giết con vật thật nhỏ, vẫn là sát sanh, tức giết
sanh mạng. Chúng ta đọc kinh sách Phật thường thấy có những vị Sư không
bao giờ đập muỗi, giết dán kiến, kẻ cả bị muỗi chích cũng không đập.

Xin hãy đọc một bài giảng của Hoà-Thượng Tuyên-Hoá đăng trong sách Khai Thị quyển bốn, trang 154:

"Trong sự mông lung của đời sống, chẳng biết từ đâu và do đâu, ta sẽ thấy nhân
quả kiếm tới, có thể ta sẽ mắc một quái tật, hay sẽ bị bịnh hành hạ, đó
là một thí-dụ về sự báo cừu có tính -cách tiêu cực . Như ngày nay,
những người mắc bịnh ung thư, phần đông do kiếp trước, hay kiếp này, đã
tạo nghiệp trọng về sát sanh, nên mới gặp loại bịnh không có thuốc chữa
này".

Chúng tôi cho rằng rất đúng. Khi viết sách Lưu-Xá-Lợi,
chúng tôi đã nghĩ rất nhiều về những vị bị ung thư do nhứt tâm niệm Phật
được Vãng Sanh, còn lưu Xá-lợi. Do nhân quả nào, do sự báo cừu nào mà
những oan-gia nhỏ xíu như loài bọ chét, kiến, muỗi đã trở thành những
loại vi-khuẩn, vi-trùng nhỏ xíu xâm nhập vào cơ thể chúng ta, gây nên
các loại ung thư, yeast, v.v..., tác hại trong cơ thể chúng ta? Yeast là
một loại nấm thật nhỏ, phải là nhà chuyên môn dùng kính hiển-vi mới
thấy được; nhưng khi nó gây ra bịnh Candida, thì còn người sẽ bị suy
nhược cùng cực. Tuy nó không phải nguy hiểm như ung thư; nhưng vẫn là sự
gây hại đáng kể.

Thời này có nhiều căn bịnh là lùng, cho nên Hoà-Thượng Tuyên Hoá mới nói: "Trong sự mông lung của đời sống, chẳng
biết từ đâu, do đâu, ta sẽ thấy nhân quả kiếm tới, có thể ta sẽ mắc một
quái tật ..."

Thật đúng, Hoà-Thượng dùng chữ "mông lung" rất hay và "nhân quả kiếm tới chẳng biết từ đâu và do dâu mà chúng sanh ngày
nay mắc quái tật"?

Thật đúng, Hoà-Thượng dùng chữ "mông lung" rất hay và "nhân quả kiếm tới chẳng biết từ đâu và do đâu mà chúng sanh
ngày nay mắc quái tật"?

Phật dạy tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, do chúng sanh đều có Phật tánh . Chúng ta đã giết và ăn thịt
những vị Phật tương lai, khiến họ phải đau đớn . Họ sẵn có từ tâm, bỗng
vì đau đớn thành sân hận và nuôi lòng trả thù báo hận . Nhà Phật gọi
những sanh vật này là oan gia trái chủ, do chúng ta ham vui đi săn bắn,
giết chết; ham câu, giăng lưới bắt một lần vô số; hoặc thích ăn ngon đã
dùng tiền mua gà, vịt, ếch, rắn, cua sò v.v.... về đập đầu, mổ bụng hoặc
dùng nước sôi luộc, khi họ còn sống giẫy tê tê. Đổi lại, nếu chúng ta
là những sanh vật ấy, chúng ta có oán hận không ?

Cho nên Đức Phật nói: "Ăn giết, giết ăn, chẳng biết bao giờ mới dứt"?

Một kiếp súc sanh kéo dài hàng tỷ, hàng triệu năm. Sự báo hận của chúng kéo
dài có khi hàng 10 kiếp và mỗi kiếp là 16 triệu 800 trăm ngàn năm. Họ
chờ đến lúc chúng ta già nua bịnh hoạn, kiệt lực, thân xác rã rời; họ
chờ chực đúng lúc, thì trả thù . Khi còn sống, chúng ta thiếu nợ oan gia
trái chủ vô số và đủ loại, do ngu mê mờ mịt, chẳng biết lo tu đúng cách
để hoá giải hận thù, hầu siêu thoát oan gia và tự độ cho mình, thì đành
theo nghiệp thọ sanh, để trả nợ oan gia.

Chúng ta có thể hoá giải những hận thù này hay không ?

Dĩ nhiên chúng ta có thể hoà giải những hận thù này . Chúng sanh
chúng ta đã và đang bị nhiều hình thức báo oán . Phương thức đối trị hữu
hiệu vẫn là danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật . Những điều chúng tôi trình
bày dưới đây, xin chư liên-hữu suy gẫm xem có đúng hay không ?

Bình thường, một người không biết Pháp môn Niệm Phật, khi chết thần thức
phải nghiệp đi thọ sanh. Như Đức Phật nói trong Kinh Kiến-Chính,
thần-thức không có hình tướng, nếu cận tử nghiệp ác, thần thức biến
chuyển ác, đi theo với nghiệp ác làm thân địa-ngục, thân ngạ-quỷ, thân
súc-sanh, thân tôm cá, sâu, bọ....thân đó giống như cái bình mà Đức Phật
đưa thí dụ. Bình tròn thì thần thức mang hình tròn, bình hình con tôm,
thì thần thức thành hình tôm.

Đó là sự biến đổi thần-thức của một con người sau khi chết. Thần-thức ra khỏi xác không có hình tướng
con người nữa. Lúc đó thần thức được gọi là hồn ma, nó có thể đi ngang
qua tường vách mà không bị trở ngại.

Nếu trước khi lâm chung, người đó bị các oan hồn đến đòi mạng, giai-đoạn này chỉ có khủng bố tinh
thần. Nếu người biết rành về Pháp môn Tịnh-Độ thì người đó có thể làm
các việc như sau:

1. Không ngừng xưng niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật .

Như đã nói ở trước, sự báo oán không phải hoàn toàn xảy đến ngay cho tất cả
mọi người. Có người gặp, có người không gặp tuỳ duyên đúng lúc nó tới .
Cho nên Hoà-Thượng Tuyên Hoá nói: "Trong sự mông lung của đời sống
chẳng biết từ đâu và do đâu, ta sẽ thấy nhân quả kiếm tới, có thể ta sẽ
mắc một quái tật, hay sẽ bị bịnh hành hạ, đó là sự báo hiệu về sự báo
cừu có tánh cách tiêu cực ...."

Đây là sự báo thù có tính cách tiêu cực, mà kẻ báo cừu không lộ hình-tướng, nhưng rất nhỏ bé lại ngu
si. Còn có những loại khác có hình tướng, lúc biến lúc hiện, có thể hiện
hình tướng đe doạ đòi mạng . Nhưng Phật A-Di-Đà có oai thần, nên khi
niệm danh hiệu của Ngài, hồn ma hay quỷ quái gì đều phải tránh xa bốn
mươi dặm. (Kể cả Thần-thức của người đoạ vào Địa-ngục, nếu thân nhân ở
trên trần thế, như trường-hợp cô gái Bà-La-Môn, tiền thân của Địa Tạng
Bồ-Tát, muốn cứu mẹ đã niệm danh hiệu Đức Giác-Hoa Định Tự-Tại Vương
Như-Lai một ngày, một đêm, thình lình mộng thấy mẹ ở Địa-ngục, sau đó
nhờ Phật lực đi xuống tận nơi, gặp Quỷ Vương tên là Vô-Độc . Quỷ Vô-Độc
gọi người niệm Phật là Bồ-Tát. Sau khi hỏi han, Quỷ Vô-Độc cho biết:
"Chẳng những thân mẫu của Bồ-Tát nhờ phước của niệm Phật và cúng dường,
đặng sanh lên cõi Trời Đạo Lợi đã ba ngày rồi; cho đến những người đồng
thọ tội ở đó cũng nhờ duyên phước ấy mà đồng sanh lên Thiên đàng trong
ngày đó").

Theo lời Kinh Bi Hoa, Quỷ Vô-Độc gọi cô gái Bà-La-Môn là Bồ-Tát .

Tại sao có thể gọi là Bồ -Tát ? Hãy nhớ đến Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức
Thích Ca nói: "...nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh-hiệu
Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì uy-lực bất-khả-tư-nghị của danh- hiệu khiến cho
tâm-thể thanh-tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng
Sơ-phần Pháp Thân...".

Đây là lời dạy tối quan trọng trong kinh, mà chúng tôi đã chứng minh, nếu người chí -thành xưng niệm
danh-hiệu Phật tới trình độ "Tâm thể thanh-tịnh", , thì tự-nhiên chứng
Sơ-phần Pháp Thân, tức là bực Sơ-địa Bồ-Tát .

Chúng ta hãy nhớ lại, cô gái Bà-la-môn-tiền thân của Địa-Tạng Bồ-Tát - đã niệm Phật một
ngày một đêm liên-tục . Nếu chúng ta có thể niệm Phật một ngày đêm không
ăn, không ngủ, thì tâm thể sẽ thanh-tịnh, nhờ vào uy-lực bất-khả
tư-nghị của danh-hiệu Phật, tự nhiên chứng nhập Sơ-phần Pháp-thân mà cô
gái Bà-La-môn không hề hay biết. Cho nên, khi cô gái Bà-la-môn xuống đến
địa-ngục, Quỷ Vô-Độc là một chúa ngục đã gọi nàng là Bồ-Tát.

Đây là kinh nói, nếu chúng ta niệm Phật đúng lời kinh dạy, thì chẳng những
oan-gia không thể báo hận, mà ta tự nhiên chứng Sơ Phần Pháp thân, chắc
chắn được Vãng Sanh.

Từ ba năm nay chúng tôi nắm vững câu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, nhắc nhở chư liên-hữu, ráng "Niệm Phật sao cho tâm
thể được thanh-tịnh", thì chắc chắn được Vãng Sanh.

Trong các Pháp môn khác, Đức Phật cũng dạy tu sao cho được thanh-tịnh. Khi tâm
được thanh-tịnh thì hành giả sẽ được tịnh, mà được tình thì trí tuệ liền
hiện đến. Đây cũng là lý do tại sao người niệm Phật được tịnh, khi đắc
quả Vãng Sanh đều lưu lại Xá-Lợi .

2. Bày tỏ lòng Sám-hối và Hồi-Hướng!

Trên đây chúng tôi nói hơi dài dòng . Nhưng nếu không nói thật rõ, có vị
không quan tâm, chỉ niệm Phật lấy có, thì chẳng được kết quả gì, thành
ra chúng tôi hại người .

Khi ra khởi tâm niệm Phật, liền phải phát tâm ăn năn sám-hối, nhận rõ rằng hành động trong quá khứ của chúng
ta đều sai lầm. Khi chúng ta sám-hối tội liền được giảm; nhưng đối với
oan gia trái chủ thấy chúng ta chưa biểu thị hành động có lợi cho họ. Có
người chủ -trương cúng kiến . Chúng tôi cho rằng như vậy chưa đủ, chúng
ta phải có hành -động thiết -thực hơn. Nghĩa là chúng ta phải có
hành động, đem công-đức niệm Phật của chúng ta, trao tặng lại cho
oan-gia trái chủ bằng phương pháp chính do Đực Phật dạy . Đó là hồi
hướng công-đức, Sám hối và hồi hướng công đức phải đi liền với nhau.
(Bởi lý do này, chúng tôi đã biên soạn sách Sám Nguyện Vãng Sanh).

Những
oan-gia đều là chúng sanh từ ba đường dữ, còn nhiều sân hận . Nếu họ
biết chúng ta cầu nguyện cho họ giảm nghiệp, thoát kiếp các đường dữ tức
nhiên họ sẽ bỏ thù hận vậy .

Cho nên trong nhà Phật, có
trường-hợp người ta "vô-tình" đạp chết một con vậy, người hiểu về nhơn
quả liền niệm Phật mười biến hay nhiều hơn, hoặc niệm chú Vãng Sanh bảy
biến đến hai mươi mốt biến; rồi hồi hướng công-đức và nguyện cầu cho con
vật được Vãng Sanh Cực -Lạc .

Đây là cách đối trị hay nhứt .

Thần thức người niệm Phật sẽ đầu thai vào hoa-sen

Nhân
Đức Phật nói về thần-thức của một chúng sanh, sau khi lâm chung thần
thức ấy phải theo nghiệp đi thọ sanh, mà có nhiều cao tăng bảo coi chừng
bị đội sừng, mang lông, tức là trở thành súc-sanh. Vậy, người tu niệm
Phật, khi lâm chung vẫn còn ác-nghiệp, làm sao khỏi theo nghiệp thọ sanh
?

Đây là chỗ thù-thắng nhứt của Pháp môn Niệm Phật. Người
không biết niệm Phật phải theo nghiệp mà thọ sanh. Còn người niệm Phật
đúng cách, sẽ mang nghiệp mà Vãng Sanh, gọi là Đới nghiệp Vãng Sanh. Khi
lâm chung, nghĩa là lúc đó vẫn còn sống, Phật A-Di-Đà và Thánh chúng
tới đón. Pháp môn Tịnh-Độ gọi là tiếp dẫn, có nghĩa là tiếp đón và hướng
dẫn.

Do đó Phật và Bồ-Tát hiện diện, oan-hồn trái chủ khiếp sợ
oai thần của Phật và Bồ-Tát, nếu muốn đến đòi mạng cũng không dám đến
gần. Phật và Đại Bồ-Tát Quấn-Thế-Âm và Đại-Thế-Chí cùng vô số Thánh
Chúng với hào quang rực trời, quỷ ma đều tránh xa muôn ngàn dặm.

Hẳn chư vị còn nhớ chuyện lễ phát giới-điệp của Hoà-Thượng Hư Vân cho quý
vị Thọ Tỳ-Kheo. Có một vị thần cổ-thụ cũng thọ Tỳ-Kheo. Lúc Hoà-Thượng
Hư Vân cung thỉnh Phật và Bồ-Tát đến chứng lễ. Vị Tỳ-Kheo thần cây
cổ-thụ khiếp sợ trước hào quang, phải tránh xa chẳng dám vào thọ lãnh
giới-điệp.

Cho nên, khi Phật A-Di-Đà và Thánh Chúng đến tiếp
dẫn người Vãng Sanh, thì oan-gia trái chủ đều lánh xa, còn thần thức
người Vãng Sanh sẽ theo Phật và Thánh Chúng đầu thai vào hoa sen. Chúng
tôi nói điều này có chứng minh.

Theo Kinh Bi-Hoa, vua Vô-Tránh-Niệm (tức tiền thân của Đức Phật A-Di-Đà), đã quy y với Phật
Bảo-Tạng . Trong lời nguyện có câu "Chúng sanh được về cõi Phật của tôi,
thần thức sẽ đầu thai vào bông sen." Nguyên văn như sau:

"Tôi nguyện tất cả chúng sanh được về cõi Phật của tôi, đều thành đàn ông
tươi tốt vô cùng, không còn thọ báo sắc thân đàn bà và cũng chẳng còn có
danh hiệu của người đàn bà nữa - Hết thảy chúng sanh khi về đó, thần
thức đầu thai trong bông sen, lúc bông nở thì căn thân xinh tốt, thọ
mạng lâu dài, không kể xiết đặng .

Tôi nguyện cho chúng sanh trong cõi ấy, ai nấy cũng đều đặng ba mươi hai tướng tốt, sáu phép thần thông..."

Chúng tôi cần nói rõ thêm một chút ở chỗ này. Khi thành Phật Vô-Lượng-Thọ tức
A-Di-Đà Như-Lai, tiền thân của Ngài là Tỳ-Kheo Pháp-Tạng, tu với Đức
Phật Tự-Tại Thế-Vương có 48 Đại nguyện. Nhưng trước đó trải qua vô số
hằng hà sa kiếp, tiền thân của Tỳ-Kheo Pháp-Tạng (tức Đức Phật A-Di-Đà)
là vua Vô-Tránh-Niệm. Vào dạo ấy, tiền thân của Phật A-Di-Đà đã phát tâm
Bồ-đề với Phật Bảo-Tạng và phát tâm trang-nghiêm xây dựng cõi Cực-Lạc
của Ngài.

Như vậy mới biết, từ vua Vô-Tránh-Niệm, kế tiếp đến
Tỳ-Kheo Pháp-Tạng, trải qua hai lần được hai vị Phật dùng oai-thần cho
thấy tất cả cõi Phật ở mười phương. Đức Phật A-Di-Đà tu lâu vô số kiếp
mới thành Phật, để rồi lập nguyện: "Ai niệm danh-hiệu ta mười niệm
liên-tục, khi lâm chung sẽ được tiếp-dẫn về nước ta." Đức A-Di-Đà qua
hai tiền thân đều phát đại nguyện xây dựng một nước Cực-Lạc, mà không
một cõi Phật nào sánh bằng. Cõi đó không có ba đường dữ. Đặc biệt thần
thức của người về cõi Cực-Lạc đều đầu thai trong hoa sen.

Chắc chắn chư liên-hữu thân ái của chúng tôi đều sẽ được đầu thai trong
hoa-sen. Hoa-sen nở đã có được ba mươi hai tướng tốt và có thần thông
rồi .

Hiểu đến đây chư Liên-hữu đã rõ, cõi Tịnh-độ, Cực-Lạc
hoàn toàn không giống cõi Tịnh-Độ nào khác, vậy mà có người dám nói:
"Tâm tịnh là cõi Phật tịnh, để ví cõi Tịnh-độ của Đức Phật A-Di-Đà". Đó
là mang tội phỉ báng Kinh Phật, coi địa-ngục là chỗ đùa giỡn.

Từ mở đầu chương này, chư liên-hữu đã mệt tinh thần vì thấy toàn chuyện
thần thức đi theo nghiệp thọ sanh, và thọ Địa-Ngục. Những điều ấy không
phải dành cho chư liên-hữu đâu. Chúng tôi nói ra hết để chư liên-hữu có
đủ dữ kiện trình bày với thân bằng, quyến thuộc, gồm những người chưa
hiểu nhiều về Pháp môn Niệm Phật. Chúng tôi chắc chắn chư liên-hữu sẽ
phát Bồ-đề Tâm và sẽ niệm Phật Vãng Sanh. Thần thức chư vị sẽ đầu thai
vào hoa sen. Phần dưới đây chúng tôi dành cho những người không nắm chắc
phần được Vãng Sanh. Chư liên-hữu sẽ dùng nó để hướng dẫn, hầu giúp họ
được Vãng Sanh Cực-Lạc.

Làm sao cứu Thần-thức của người không biết niệm Phật ?

Thần-thức tức là linh-hồn. Nói rằng, chúng ta sẽ cứu được thần-thức của những
người không biết niệm Phật, nghe qua như là chuyện hoang đường; nhưng
đây là sự thật.

Chúng ta có thể cứu được, nếu chúng ta đọc rõ
Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ và sách Liễu-Sanh Thoát-Tử, chúng ta thật sự có
thể thành tựu. Có 3 cách cứu thần-thức:

1. Theo Quán Kinh, một người suốt đời làm ác, đáng đoạ đường dữ, may mắn được bực
Thiện-Tri-Thức nói pháp mầu dạy quán tưởng Phật. Người nọ quán tưởng
không nổi: Thiện-Tri-Thức bảo: Nếu ngươi không thể tưởng Phật kia, thì
nên xưng danh Phật Vô-Lượng-Thọ. Người nọ hết lòng niệm chẳng dứt tiếng
để đủ mười niệm "Nam-Mô A-Di-Đà Phật".

Nhờ xưng-danh Phật nên trong mỗi một niệm trừ tội sanh tử tám mươi ức kiếp, khi vừa tắt hơi
thấy hoa sen vàng như vừng mặt trời ở trước người ấy, trong khoảng phút
chốc liền được Vãng Sanh Thế-giới Cực-Lạc .

Đây là cách thứ nhứt .

Một người suốt đời làm ác, chưa từng biết niệm Phật . Như vậy chắc chắn khi
lâm chung, thần-thức sẽ theo nghiệp đi thọ sanh, tức là sẽ đoạ Địa-ngục
.

Trong sách Lưu-Xá-Lợi mới, chúng tôi có thuật chuyện em trai
chúng tôi. Em trai chúng tôi suốt đời không làm ác, không đi quân đội
bắn giết nhưng cũng không biết niệm Phật nhứt tâm. Lúc lâm chung, em
chúng tôi vẫn còn tỉnh biết, khi vợ và con của em chúng tôi nói bên tai,
em chúng tôi đều nghe biết cả . Trong những ngày ấy, chúng tôi bèn nghĩ
rằng, mình đã viết sách Lưu-Xá-Lợi, phải thực hiện việc cứu thần thức
của em mình .

Trước tiên, chúng tôi dặn đứa con trai vận động y
tá xin phép bác sĩ, nếu khi em trai tôi chết, cho được để yên 8 tiếng
đồng hồ sau mới cho nhà quàn lấy xác. Đây là lý do tôn giáo. Một mặt,
chúng tôi xin phép đặt một máy niệm Phật cạnh tai em trai chúng tôi; dạy
vợ con em tôi và bạn bè cùng chắp tay niệm Phật. Hiền nội thì luôn luôn
kề sát bên tai em nhắc nhở hãy niệm Phật không ngừng. Đồng thời, nhờ
thân hữu của em trai chúng tôi, mời Thiện-Tri-Thức đến khai thị, nhắc
nhở niệm Phật .

theo sách "Chết và Tái Sanh" do Đại Đức Nguyên Tạng ở Úc dịch, Ngài Dilgo Khyentse Rinpoche, một Lạt ma tái sanh viết:

"Thông thường khi một người đang hấp hối, chúng ta đọc một kinh cầu nguyện
hoặc nhắc nhở, họ đều nghe thấy, thậm chí người bất tỉnh cũng nghe". Đối
với vong linh trong cõi trung ấm cũng có khả năng nghe, cảm nhận và
hiểu được ...Vì thế, trong bảy tuần lễ đầu (tức 49 ngày), sau khi chết
là thời-gian hết sức quan-trọng để người sống làm mọi việc để giúp
...cho người chết".

Đọc sách Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi, hẳn chư vị
đều biết, tám giờ sau khi em tôi mất, trên trán vẫn còn hơi ấm. Theo
sách Liễu-Sanh Thoát tử, trường hợp vậy là được Vãng Sanh Cực-Lạc .

Dựa vào kinh-nghiệm này, chúng tôi nghĩ rằng, ngoài những vị nắm phần chắc
rằng mình đã niệm Phật tới nhứt tâm; chư liên-hữu khác, nếu chưa hoàn
toàn tin tưởng mình sẽ giữ được chánh niệm khi lâm chung, thì nên sanh
hoạt với người nhà và bạn đạo chuẩn bị trước, như chúng tôi đã lo cho em
trai chúng tôi.

Thật sự trước khi em trai chúng tôi chưa mất,
chúng tôi cũng lo ngại cho riêng mình . Nhưng bây giờ thì chúng tôi an
tâm, vì vợ con chúng tôi đều hiểu, đều biết phải làm sao khi chúng tôi
từ giả cõi đời này. Chắc con cháu chúng tôi sẽ không ai khóc và đám tang
sẽ cử hành trong lặng lẽ, đúng theo nghi thức thanh-tịnh của Phật-giáo.

Dưới đây là một bài học kinh nghiệm.

Chúng tôi có một người bạn rất nổi danh, dã trên 80 tuổi, lúc chết cảnh sát
đến mang xác đi khám nghiệm . Đây là điều kỵ thứ nhứt . Ngày đưa đám, em
cháu, bạn bè khóc lóc kêu réo buồn thảm. Vậy thần thức của anh ấy làm
sao mà đi cho đành ? Đây là điều kỵ thứ hai. Chữ "tình" này thật quá
lớn, tô thật đậm nét . Những người đang hiện diện lúc đó đều không hiểu
rằng: "đến đưa đám là giúp cho linh hồn người chết đi đến nơi an lạc".
Thêm nữa, người ta còn mở máy, hát một bản nhạc mà anh thích nhứt trong
đời. Thử hỏi làm sao thần-thức bạn tôi siêu-thoát được? Đây là điều đại
kỵ thứ ba của Phật giáo.

Chúng tôi viết những lời này ra dây,
để chư liên-hữu hiểu tường-tận hầu sanh hoạt trước trong gia đình, chuẩn
bị cho ngày ra đi của mình, tránh không cho kẹt chữ "tình" này.

Đừng nên vì một chút rằng buộc của lễ nghĩa, của thói quen thế gian, nó chỉ
là của ngoại đạo, khiến bị kẹt lại trong luân hồi vô số kiếp nữa .

Chúng ta nên học tập thực hiện đúng một đám ma thuần tuý Phật giáo, thì việc Vãng Sanh Cực-Lạc dễ thành tựu.

[b]Một người suốt đời làm ác làm sao được Vãng Sanh Cực-Lạc ?


Như chúng tôi đã trình bày ở trước, một người Vãng Sanh được Phật
A-Di-Đà và Bồ-Tát đến rước đi, khi thân tứ đại vẫn còn sống. Nhưng, khi
một người sau khi chết rồi, mà chưa được Vãng Sanh, Thần thức của người
ấy lập tức rơi vào địa-ngục, nếu suốt đời làm ác. Có nghĩa là, nếu được
Vãng Sanh thì đi thẳng về Cực-lạc khi Phật đến rước, lúc ấy thân còn
sống, thần thức đầu thai vào hoa sen.

Dựa theo Kinh Phật, với
một người được Vãng Sanh Cực-Lạc so với một người không được Vãng Sanh,
chúng ta nhìn vào gương mặt thấy có sự khác biệt.

Một người được Vãng Sanh, gương mặt trông thanh thản vui tươi như đang cười; còn
người không được Vãng Sanh thì gương mặt như nhăn nhó, xấu-xí dường như
đã trải qua sự đau đớn.

Tại sao vậy ?

Theo Kinh Phật, người sắp chết phải trải qua giai đoạn tuần tự của
trạng thái tứ đại tan rã. Cơ thể sẽ cảm thọ sự đau đớn không thể tả.

Lúc đầu, lóng chân lóng tay cảm thọ đau đớn, tay chân gân mạch co rút, run
rẩy . Kế tiếp, hơi lạnh xâm nhập, nội tạng rung động, gan ruột đều lạnh
buốt, hơi thở khò khè, nhan sắc nhợt nhạt, run rẩy. Thứ ba, hết lạnh đến
nóng. Lục phủ ngũ tạng như bị thiêu đốt, tứ chi như bị cắt, chặt, đau
đớn quá nên cứng đơ, thở ra thì nhiều, hít vào thì ít . Lúc này hơi thở
chỉ còn thoi thóp. Sau cùng, lúc đó thân thể cảm thọ sự tan nát, hết sức
đau đớn rã-rời. Đây là lúc tứ đại phân ly, sáu căn tàn hoại, chỉ còn
nghiệp thức.

Hiểu được sự diễn tiến tan rã đau đớn này, tại sao
chúng ta không tu tập Pháp môn Niệm Phật thật nghiêm mật tinh-chuyên ?
Vì người được Vãng Sanh Cực-Lạc không hề bị đau đớn vào giờ phút chót.
Ai đã có dịp được xem cuốn phim "Hoa Nở Thấy Phật" của cụ bà
Triệu-Vinh-Phương đều chứng kiến tận mắt những giờ phút bà niệm Phật
Vãng Sanh Cực-Lạc . Cụ bà an nhiên niệm Phật, mặt không đau đớn, bình
thản đến khi thấy Phật và lặng lẽ ra đi vĩnh viễn, không một tiếng nấc
lên. Rồi thấy hình ảnh cụ bạ được thiêu và thấy Xá-Lợi trước mắt mình .

Xem phim này rồi, mọi người đều chung một cảm nghĩ: "Nhiều người chết đau
đớn quá, sau đó phải theo nghiệp mà thọ báo trong vô số kiếp, nếu như
may mà được làm lại thân người, thì cuộc sống cũng chẳng được bao nhiều
vui sướng hạnh phúc, lại phải chịu tám thứ khổ như: Sanh khổ, Lão khổ,
Bịnh khổ, Chết khổ, Ái biệt-ly khổ, Khổ khi gặp oan-gia, Khổ vì cầu
không được như ý và Khổ về năm ấm hưng thạnh nên sanh ra bạo hành".

Khi sống, thời gian niệm Phật chẳng đòi hỏi quá lâu dài, mà khi chết lại
được an vui tự tại và sau cùng, đến đất Phật được yên vui lâu dài .

Trái lại, nếu khi sống chỉ biết lo hưởng thụ, mà hưởng cũng chẳng thật sự
sướng vui; khi chết thì đau đớn tận cùng, mặt mày đau đớn nhăn nhó, rồi
thần thức phải theo nghiệp mà luân hồi triền miên hàng triệu tỷ năm nữa .

Vậy chúng ta nên chọn lối sống nào ??

Trường-hợp chưa được Vãng Sanh làm sao đưa họ về Cực-Lạc ?

Điều này, theo sách Liễu-Sanh Thoát Tử, vẫn có thể thực hiện được.
Nếu chúng ta thật sự thương ông bà, cha mẹ, con cái, anh em thì chúng
ta nên chịu khó nghiên cứu kinh điển, sách vở, và đem áp dụng khi gặp
trường hợp một người chết mà không được Vãng Sanh.

Sách này chúng tôi chỉ viết vắn tắt để giúp ý, chư vị nên tìm đọc hoặc nghe băng
đọc về sách Liễu-Sanh Thoát Tử do Thầy Thích-Quang-Phú-dịch.

Một người chết mà chưa được Vãng Sanh Cực-Lạc, chưa thoát luân hồi. Phật
dạy: "Họ phải đi vào giai đoạn thân trung ấm", sẽ tuỳ theo nghiệp lực mà
thọ sanh. Thời-gian này kéo dài khoảng 49 ngày. Trừ người được Vãng
Sanh ngay và người cực ác phải đoạ liền. Tuy nhiên, như đã nói: "Người
cực ác lúc lâm chung vẫn còn hy vọng được Thiện-Tri-Thức khai thị nói
Pháp mầu và dạy niệm mười câu danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật cũng được
Vãng Sanh".

Thần -thức của người chết có được cứu hay không,
trước tiên phải do sự hiểu biết phương-cách cứu độ hay không của cha mẹ
hay con cái . Người biết cách, phải tự tích cực lo lắng ngay, khi đang
lâm bịnh nặng và được Phật đến rước khi còn sống . Biết lo lắng sớm thì
cầm chắc như được thành công. Còn không biết gì cả, khi chết rồi, người
nhà mới chạy hỏi Thầy, hỏi người biết chuyện; nếu gặp duyên không tốt,
người biết chuyện không tìm ra, đành bó tay, thật oan uổng cho một người
phải gánh chịu trong vô số kiếp . Trong đời này đã xảy ra hàng triệu
triệu vụ người chết bị bỏ mặc, vì cha mẹ con cháu không hiểu Phật pháp .
Nhiều người thương cha mẹ con cái, nhưng vì chẳng hiểu đạo một cách
đúng đắn và đầy đủ, mà trở nên ân hận suốt đời, vì đã bỏ lở dịp cứu anh
em, cha mẹ, con cái; giúp họ được Vãng Sanh. Nếu có đọc sách Liễu-Sanh
Thoát Tử, chắc chắn chúng ta sẽ thấy rõ điều hối tiếc này.

Cho nên, nếu thật sự thương cha mẹ con cái, khi người chết nằm xuống, biết
người ấy chưa được Vãng Sanh, tức tốc phải lo vô số việc.

Người có tiền, nhà dư giả thì lo theo dư giả; người không tiền thì lo theo
không tiễn. Có tiền hay không, căn bản là lòng thương yêu thật sự . Có
tiền mà không thật sự muốn cứu thân nhân mình, chỉ là một đám ma nhà
giàu bằng hình thức; thì sẽ thua người không tiền. Người nghèo này không
khả năng thỉnh thầy làm lễ một ngày đôi lần, nhưng họ luôn luôn túc
trực bên quan tài, luân phiên thành kính niệm Phật không ngừng; luôn
luôn thành tâm lễ lạy, cầu Phật và Thánh chúng tiếp độ thân nhân mình.
Thành tâm vì người chết niệm Phật, rồi hồi hướng công-đức cho họ, thì
người chết chắc chắn được Vãng Sanh.

Trong vòng 49 ngày, thần thức người chết thường hiện diện, mình nói với họ hiểu; nhưng họ nói thì
mình không nghe biết; nên tâm họ thường giận tức. Cho nên tránh nhắc
nhở quá khứ của người chết. Chỉ nên thắp nhang liên tục, niệm Phật không
ngừng là tốt nhứt. Phải thành tâm và kiên trì ở bên người chết. Sau khi
chôn, nếu cả nhà cố gắng chia nhau ở bên bàn thờ niệm phật, lúc nào
cũng kêu gọi nhắc nhở người chết niệm Phật, đó là tạo điều kiện cho
người chết được Phật và Bồ-Tát đến tiếp dẫn. Còn như thân nhân bỏ bê, bà
thờ người chết nhanh khói tiêu điều, đèn đuốc không có, thì người chết
sẽ vô cùng lạnh lẽo đau khổ. Đừng tưởng chúng ta làm tuần bảy ngày một
thất là đủ. Thần thức sẽ đau buồn, chán nản hay giận hờn, dễ rơi vào
đường dữ.

Nếu là một người biết dạo, bình thường hay lui tới
các chùa và tiếp xúc thường xuyên với các ban hộ niệm; lúc hữu sự, nếu
quý Tăng Ni không rảnh để đến nhà tụng kinh Cầu Siêu cho, thì bạn đạo ở
ban hộ niệm luân phiên đến nhà tụng kinh niệm Phật, thì cũng tốt vậy.
Nhà Phật thường nói đến chữ duyên. Thì cái duyên đến trợ niệm cho nhau
là thù thắng nhứt.

Chúng tôi tha thiết và thành tâm xin chư
liên-hữu ở mỗi chùa, mỗi vùng nên dành thì giờ lập ban hộ niệm. Giúp cho
một người được Vãng Sanh Cực-Lạc, không công-đức nào sánh bằng. Như
Phật nói: "Vãng Sanh tức là thành Phật". Vậy chúng ta ở trong ban hộ
niệm, đến trợ niệm cho một người Vãng Sanh tức là giúp cho người ấy sẽ
thành Phật.

Nhiều chùa có ban hộ niệm lúc đầu, nhưng nhơn số
quá ít, lâu ngày như không còn nữa. Vậy nên lập ban hộ niệm toàn vùng,
với nhơn số lớn, thì lúc nào cần, vẫn có người đến trợ niệm. Vậy xin chư
liên-hữu hãy phát Bồ-Tát tâm, đứng ra lập ban hộ niệm toàn vùng cho các
địa phương người Việt sanh sống.

Có một điều khá quan trọng, chúng tôi muốn lưu ý chư liên-hữu. Trong sách Liễu-Sanh Thoát Tử có nói:
"Không nên gấp rút động đậy như dọn dẹp mền nệm, chùi rửa thay đổi quần
áo, cần để yên độ tám tiếng đồng hồ ...Nếu không theo như thế, thì
nghiệp thức chưa hoàn toàn rời bỏ thân, bị xúc-động phải cảm thọ sự đau
đớn nhân đó mà sanh ra sân hận, tức phải đoạ vào ác đạo".

Dựa vào sách Liễu-Sanh Thoát Tử chúng tôi nói 8 tiếng. Nhưng trogn sách Chết
và Tái Sanh của Đại Đức Thích-Nguyên-Tạng dịch, các vị Lạt Ma Tây Tạng
còn nói lâu hơn, như sau:

Kirti Tsenshab Rinpoche viết:

"Tốt nhứt là đừng nên đụng chạm đến thể xác họ trong thời điểm ấy
(thiền-định). Ngay cả một người thường (người không có tu tập) cũng
không được đụng đến thi thể của họ đến ba ngày sau".

Ngoài ra người Tây Tạng còn dặn không nên rờ vào hạ bộ, tức là phần chân, Lạt ma Garje Khamtul Rinpoche viết:

"Khi một người vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm đỉnh đầu của họ, đó là vùng
huyệt đạo tốt nhứt để thần thức thoát ra, mà ngài Lama Je Tsong Khapa
gọi là 'chiếc cổng vàng'. Do đó, bạn nên kích thích vào vùng đỉnh đầu,
nếu thần thức của người chết thoát ra ngoài bằng đường này thì chắc chắn
họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành". Nhưng nếu thần thức thoát ra
các đường ở hạ bộ, từ lổ rốn trở xuống, người ấy sẽ ác sanh vào ác đạo,
như cõi ngạ-quỷ hay loài cầm thú. Vì thế, người Tây Tạng không bao giờ
tiếp xúc hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ
thì thần-thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát ra".

Đây là điều khá
quan trọng, xin chư liên-hữu lưu ý điều vừa nói, và xin ghi nhớ thêm
điều này nữa. Nhiều người đã chết, thân nhân không hiểu cứ muốn lưu giữ
lại. Xin hãy đọc Lama Dilgo Khyentse Rinpoche viết:

"Bốn mươi chín ngày là thời-gian chung cho tất cả mọi người; nhưng có một số người
khác cứ vất-vưởng trong thế-giới trung ấm này một thời-gian khá lâu, có
lúc đển bảy năm mới đi tái sanh. Nếu trường-hợp họ bị kẹt lại trong thế
giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ".

Cho nên nếu chúng ta không biết tổ-chức một đám ma thanh-tịnh, không biết trợ niệm
để thần thức người chết được vãng sanh thì thần thức ấy dễ thành ma quỷ.
Người Việt chúng ta ở Mỹ và các nước Âu Úc, trừ người chết ở nhà
thương, còn đa số người khác dù đã trên 80 tuổi, đau nặng, sau khi mất,
cảnh sát vẫn đến chở xác đi khám-nghiệm, ba bốn ngày sau mới trả xác
lại.

Như vậy là xác bị động đậy và bị mổ xẻ sẽ khiến cho thần thức người chết sanh sân hận.

Đây là điều chúng tôi lo lắng và e ngại nhứt. Nói ra điều này chúng tôi cố ý
khuyên chư liên-hữu nên quyết tâm tu niệm Phật đạt đến trình độ kết
thành phiến, tịnh niệm nối tiếp. Khi lâm chung, chúng ta chưa chết mà đã
đi Vãng Sanh Cực-Lạc .

Nhân đây chúng ta cũng nên lập lại về trường hợp những người ở Âu Mỹ chết tại nhà. Thường thì thân nhân phải
cho cảnh sát báo tin cho lấy xác, rồi nhà quàn đến chở xác. Như vậy phải
mất từ ba đến bốn ngày, khoảng thời -gian này thần thức hết sức hoang
mang, đau đớn, bơ vơ...

Theo Hoà-Thượng Tịnh-Không, một người được Vãng Sanh Cực-Lạc thì đã đi ngay khi còn sống. Theo Quán Kinh: "Có
chúng sanh huỷ phạm năm giới, huỷ pham tám giới và Cụ túc giới v.v...bởi
nghiệp ác nên đáng đoạ địa -ngục. Khi sắp mạng chung, lửa địa-ngục cùng
lúc hiện đến ...". Như vậy, người phải đoạ địa-ngục, lúc sắp chết lửa
địa ngục hiện đến ngay, liền đoạ vào địa-ngục, không qua giai-đoạn thân
trung ấm.

Một người Việt ở Âu Mỹ, nếu chết tại nhà, phải bị chở
đi mổ xẻ khám nghiệm; thần thức sẽ đau đớn sanh sân-hận, thì hoả
địa-ngục sẽ hiện đến chăng? Chúng tôi đã ngồi suy-nghĩ luôn ba ngày, tìm
hiểu thần -thức ấy sẽ ra sao? Chúng tôi xin chư liên-hữu nào có cao
khiến, vui lòng cho được thỉnh ý.

Bây giờ nói về việc trợ niệm để cứu độ Thần-thức của người đang ở trong giai-đoạn thân trung ấm.

Sách Liễu-Sanh Thoát Tử viết:

"Xét ra thì trong lúc đó, người chết không tự biết rằng mình đã chết hay
chưa, thì những thân thuộc nên mỗi ngày ba phen vì họ mà luân phiên niệm
Phật, để nhờ oai lực của Phật A-Di-Đà dắt dìu họ được sanh về Cực-Lạc .
Như thế thì dù có nghiệp duyên cũng không trở ngại được ...."

Như vậy rất rõ ràng oai lực của Đức Phật A-Di-Đà sẽ dắt dìu người chết về
cõi Cực-Lạc . Vấn-đề quan trọng là thân nhân của người chết có tận lực
và chí thành vì người chết mà lao khổ niệm Phật hay không ?

Chúng tôi có thể nói, đây là những giây phút hết sức tối hệ trọng của một con
người: "sơ sẩy" trong thời-gian này thay vì được cứu giúp để vượt thoát
về cõi Phật A-Di-Đà, thì thần-thức kia có thể luân hồi về một cõi bất
định nào đó không ai có thể đoán biết được.

Đoạn này chúng tôi viết xong, xóa bỏ, rồi viết lại ở nhiều chỗ. Chúng tôi muốn viết sao mà
người đọc đều thấy rõ, phải ráng tự lo tu tập để được Vãng Sanh. Chứ
đừng để lúc rời vào trung ấm, muốn cứu thật là khó.

Đó là nói chung đối với những người tu theo Pháp môn niệm Phật. Cho nên, đừng chờ
lúc rơi vào thân trung ấm, hy vọng muốn được thân nhân cứu độ thật là
muôn vàn khó khăn.

Bây giờ trở lại vai trò của thân-nhân lo việc trợ niệm người chết. Xin hãy nghĩ nhớ điều này, từ lâu nay thế-gian
ít có - nhưng không phải không có - người biết tích cực trong việc trợ
niệm. Chúng ta không tích cực lo việc trợ niệm là vì lầm tưởng "chết rồi
thì thôi lo chỉ cho mệt nhọc".Nhưng nếu chúng ta hiểu rõ, chúng ta vẫn
còn nhiều hy vọng, cứu vãn tình thế của một người sẽ phải luân hồi vô số
kiếp, bỗng nhiên người đó từ trong trạng thái thân trung ấm liền được
hoa sen đỡ chân tay về Cực-Lạc, "đầu thai vào hoa sen".Từ lúc đó người
ấy - tức là thân nhân chúng ta - không còn một giây phút sợ hãi, đau
khổ; chúng ta tuy mệt nhọc vài ngày đến vài chục ngày, là vợ chồng, cha
mẹ, con cái, đã thương yêu nhau mấy chục năm, bây giờ chẳng ráng vài
ngày đêm lo trợ niệm cho họ được sao ?

Chúng tôi phải cố nói thật rõ những điều qua, thì lời khai thị mới thật sự thành hữu ích. Sách
Liễu-Sanh Thoát Tử ấn tống đã lâu, nhưng chắc chắn ít có người dùng nó
để cứu độ thận nhân. Chúng tôi hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều người
áp dụng.

Bài Khai Thị dưới đây, chúng tôi phỏng theo nguyên
bản sách Liễu-Sanh Thoát Tử, dùng cho việc trợ niệm người đã chết, gồm
có Thiện-Tri-Thức là các bạn đồng tu và đại diện gia-quyến. Tất cả đều
nên tuỳ theo vai vế trong gia-quyến hoặc khỗ quên biết của người đồng tu
mà soạn thành bài Khai-Thị khác. Cứu độ thần thức một người là điều hết
sức quan trọng, xin mọi người hãy thận trọng nhiên cứu và học tập trước
.

Lời Khai Thị

(Thí dụ một người mẹ nói với con đã chết)

Mỹ Lan ơi! Mỹ Lan con! Mẹ đây, con có nghe rõ tiếng mẹ gọi không ? Bây giờ con không
còn ở trên thế-gian này nữa. Con đã chết rồi! Con thật sự chết rồi! Con
hãy đến trước một tấm gương nào trong nhà, con nhìn xem sẽ không thấy
mặt mũi con nữa. Bây giờ con sống trong thân trung ấm, đó là linh hồn
chớ không phải sắc thân tự đại do huyết nhục tạo ra.

Những giờ qua, con đã trải qua nhiều hãi hùng; con thấy thân con nằm đó mà con
muốn nhập vào chẳng được, khiến con lo âu, giận dữ. Con càng giận càng
bất lợi cho con. Con nhìn xem, những người trong gia-đình mình không ai
khóc lóc, đó là muốn cho con đừng quyến luyến gia-đình mà chẳng chịu rời
đi. Nếu con vẫn còn ở thế-gian này, con sẽ thành hồn ma lạc lõng. Khi
đã chết là không thể ở lại đây nữa. Mọi người đều phải theo luật nhơn
quả, tuỳ theo nghiệp tốt xấu của mình mà cảm thọ quả xấu tốt. Nhưng dù
quả tốt hay xấu, con người rồi vẫn phải sanh rồi chết; chết rồi sanh.
Tất cả vui và khổ lẫn lộn, Khổ thì nhiều vui lại ít.

Vậy con hãy chọn con đường: "Nương theo danh


Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 8:48 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:24 am

CHƯƠNG MƯỜI BA: NIỆM-DANH-HIỆU A-DI-ĐÀ PHẬT CỨU ĐƯỢC THÂN NHÂN Ở ĐỊA -NGỤC!
Chúng tôi viết đến đây, bỗng được cô Tâm
Từ trao lá thư của một nữ Phật tử tại xã Trung An, Thốt Nốt, Cần Thơ,
xin đăng dưới đây:

Nam-Mô A-Di-Đà Phật
Kính gởi Tâm Từ Sen Thanh Đọc Kinh Truyện. Tôi là người nông thôn dân ở vùng quê hẻo
lánh, nên ít có dịp đọc kinh truyện. Nhưng gần đây, hữu duyên được đọc
cuốn Niệm Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi. Thật là một duyên may mới gặp và
đọc được cuốn Truyện Vãng Sanh này. Tôi mới hiểu ra niệm Phật sẽ thành
Phật. Chứ theo quan niệm thông thường thì tôi nghĩ là cuộc đời mình khổ
quá, chỉ có Pháp Niệm Phật làm cho bớt khổ thôi, nào dè niệm Phật Vãng
Sanh Cực-Lạc, rồi thành Phật đạo. Thật là một pháp môn tối thắng mầu
nhiệm vô cùng.

Rồi từ đó tôi mới cũng cố công hạnh niệm Phật và biết phát nguyện đúng cách để hợp với bản nguyện của Đức Phật A-Di-Đà
hầu được vào biển thệ của Ngài, để khi lâm chung Phật và Thánh chúng
tiếp dẫn Vãng Sanh Cực-Lạc thành Phật.

Tôi vô cùng cảm thương và muốn làm sao cho tất cả những người nông dân chất phát hiền lành đều
được biết giá trị của sự niệm Phật Vãng Sanh, vì pháp môn này rất hợp
với người nông dân Việt-Nam.

Thư còn dài, tác giả ký tên Nguyễn Thị Ngó. Sở dĩ cô viết cho Sen Thanh Đọc Kinh Truyện là ao ước được bộ
băng Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Sưu Giải để phổ biến cho bà con nông-dân
trong vùng cùng được hiểu.

Chúng tôi nêu ra sự việc này, để chứng minh việc ấn-tống kinh sách có công-đức khi Vãng Sanh, như Đức
Phật nói ở Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ. Và để nói rõ ràng: nhờ công-đức của
chư liên-hữu, mà ngót sáu mươi ngàn cuốn sách của chư liên-hữu ấn -tống
trong 2 năm qua 1999-2001 được tới tay mọt số bà con ở quê nhà, từ thành
thị tới nông thôn, từ Nam ra tới Bắc . Đúng như Đức Phật nói: "Tri ơn
Phật là làm sao cho Chánh-pháp lưu hành rộng khắp nhân gian". Nhưng rất
tiếc là việc đem sách về nước thật là quá khó khăn.

Chúng tôi còn được rất nhiều thư khác từ trong nước chứng minh cao trào niệm Phật
Vãng Sanh Cực-Lạc được lan rộng từ trong đến ngoài nước là nhờ vào
công-đức của chư liên-hữu.

Bây giờ nói đến việc niệm danh-hiệu Phật A-Di-Đà cứu độ được thân nhân ở địa-ngục. Đáng lý chương 13 này và
các chương sau không có . Nhưng nghĩ lại chúng tôi đã vất vả mấy tháng,
để ghi chép lại sách này với phần giảng Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm của
Hoà-Thượng Tịnh-Không, thì cũng nên trình bày chương này nói về nguyên
nhân tại sao chúng sanh chúng ta phải bị đoạ vào địa-ngục ?

Đây sự ngộ nhận tai hại của đa số chúng sanh chúng ta.

Ông bà mình có người thường nói: "Mình giữ sao cho tròn đạo làm người là đủ
rôi", hoặc nói rằng: "Nhơn đạo còn chưa tròn nói gì đến Thiên đạo".

Đây là quan niệm của đạo Khổng Nho, chủ trương giữ sao cho được tròn liêm,
sĩ, trung, hiếu, lễ, nghĩa, tín là đủ. Ngụ ý khuyên giữ đạo làm người là
đủ rồi. Nhưng, thế gian thường nói "Nhân vô thập toàn", thì tới lúc nào
mới tròn, "nhơn đạo"? Chắc chết rồi cũng chưa tròn!

Trái lại, Đức Phật với cặp mắt toàn giác, Ngài nhìn thấy đa số chúng sanh sau khi
chết, được trở lại thân người rất ít, ít như đất trong móng tay so với
đất khắp cả địa cầu.

Tại sao ?

Một người giữ đúng đạo làm người, đó là người gương mẫu lương thiện nhứt, vẫn chưa hẳn sau khi
chết lại được tái sanh làm người. Bởi khi sống vẫn trong tránh khỏi sát
sanh, trừ người ấy ăn chay từ nhỏ tới lớn. Vả lại, con người thường có
tội lỗi mà tưởng đâu mình vô tội. Thí dụ một người buôn bán, đúng giá
một món hàng chỉ độ 1 đồng, mà lại nói thách ra giá cao hơn, để kiếm lời
nhiều hơn. Theo nhà Phật, đó là tội vọng ngữ, tâm bất chánh. Như vậy
trong ngũ giới nhà Phật chúng ta đã phạm một điều. Còn lại bốn là dâm,
đạo, sát và rượu. Dâm và đạo nó có nhiều chỗ vi tế mà nhiều người tưởng
đâu mình toàn thiện, thật sự mình dính vào trong cuộc sống hàng ngày mà
mình không hay biết, hoặc không nhớ được; rồi tưởng đâu mình chẳng hề
phạm tội .

Lúc lâm chung những giao báo xảy đến, mình đã rơi vào .

Giao bán là gì ? Xin đọc tiếp ở bên dưới .

Nói rõ thêm, giả dụ có một người thật sự giữ đúng đạo làm người ở kiếp này;
nhưng trong vô số kiếp trước đã từng làm việc ác mà chưa đền trả, lúc
lâm chung do một nghiệp duyên gì đó, thí dụ người đó bị đụng xe hoặc rớt
máy bay rồi chết, bị động đất hoặc bão lụt rồi chết v.v...những cái
chết làm đau đớn thân xác, cận tử nghiệp đang làm trở nên ác và những
nghiệp ác từ muôn kiếp trước, còn giữ trong tàng thức của người đó, đúng
lúc dự phần vào khiến người đó phải thọ sanh vào đường dữ. Giống như
một người đang buôn bán yên lành, dù vẫn thiếu nợ nhiều người khác, bỗng
nhiên kẹt tiền nhà băng, lại bị đòi nợ, các chủ nợ khác thừa cơ xúm lại
đòi nợ, thế là sập tiệm rồi. Thí dụ này cũng giống như trường hợp vô số
nghiệp ác từ kiếp trước dự phần vào khiến cho một người trong đời ít
tội lỗi nhưng lúc sắp chết cận tử nghiệp ác lại bị công thêm nhiều
nghiệp ác, từ nhiều đời trước khiến khi chết rời vào địa-ngục, như người
bị sập tiệm.

Cho nên, chỉ thấy một chút đạo lý Khổng Nho mà cho là đúng, vô tình tự làm hại mình . Phật pháp nhiệm mầu, bao la, sao
không lo học để tự cứu mình, cứu gia đình và cứu người ? Chỉ có Pháp môn
Niệm Phật mới là thù thắng, như vị nữ nông-dân Phật tử ở Thốt Nốt nói.

Niệm Phật có thể tự cứu mình tại địa-ngục, hoặc cứu người ở địa-ngục.

Nhưng do đâu có quả địa-ngục ?

Chúng ta nên dựa đúng vào Kinh để tránh sự sai lầm. Ở các chương
trước, chư liên-hữu đã nghe Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng một phần về Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm, dưới đây chúng tôi trích thêm một phần kế của Kinh
Lăng-Nghiêm, Đức Phật nói về Mười Tập Nhân và Sáu Giao Báo.

Tập nhân tức là những tập quán, tức thói quen mà chúng ta sống, hành động;
huân tập tâm niệm xấu nhiều thì hình thành quả báo xấu; huân tập tâm
niệm tốt nhiều thì hình thành quả báo tốt.

Mười tập nhân là những tâm niệm liên tục do các thứ tập quán kết thành (sẽ kể ở sau) nó
phát sanh ra những quả báo rất đáng ghê sợ trong các địa-ngục. Học kinh
mà không học về Mười Tập Nhân và Sáu Giao Báo cũng còn thiếu sót.

Có người nói địa-ngục không có thật. Vậy xin hãy nghe Đức Phật nói, khi
lâm chung hoả địa-ngục hiện đến, thần-thức người chết theo khói vào ngục
vô-gián, thấy sáng hoặc tối. Thấy sáng thì khắp thấy nhiều vật dữ, lo
sợ vô cùng; thấy tối, lặng, không thấy gì sanh ra hoảng hốt vô-hạn.

Dưới đây là mười tập nhân và sáu giao báo, chúng tôi xin trích đăng nguyên văn từ Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm:

KHAI-THỊ MƯỜI TẬP-NHÂN

"Thế nào là mười Tập-nhân ? A-nan, một là, tập-quán dâm-dục,
giao-tiếp cùng nhau, phát-sinh cọ-sát lẫn nhau; cọ-sát mãi không thôi,
như thế, nên trong ấy có ngọn lửa-hồng lớn nổi lên; ví-như, có người lấy
hai bàn tay cọ-sát lẫn nhau, thì cảm-giác nóng hiện ra. Hai cái tập-khí
đốt nhau, nên có những việc giường sắt, trụ đồng. Vậy nên, tất-cả các
đức Như-Lai thập phương nhận-xét việc dâm-dục, đồng gọi là lửa-dục;
Bồ-Tát đối với dâm-dục, tránh như hầm lửa .

Hai, là tập-quán tham-lam, so-đo hơn thiệt, phát-sinh hấp-thụ lẫn nhau; hấp-thụ ôm-ấp mãi
không thôi, như thế nên chứa hơi-lạnh bên trong thành giá cứng, làm cho
nẻ -nứt; ví như, có người hút hơi gió vào, thì có cảm-xúc lạnh. Hai
tập-khí lẫn nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la, thanh liên,
xích liên, bạch liên, hàn băng, vân vân...Vậy nên, tất cả các đức
Như-Lai thập phương nhận-xét việc tham-cầu quá nhiều, đồng gọi là nước
tham; Bồ-Tát đối với lòng tham, tránh như biển-độc .

Ba, là tập-quán ngã-mạn, lấn-lướt lẫn nhau, phát-sinh ỷ thế với nhau. Rong-ruổi
không thôi, như thế, nên có sự bôn ba, sôi-nổi, chứa lại thành nước;
ví-như, có người miệng lưỡi tự chép, làm cho nước bọt chảy ra. Hai
tập-khí chọi nhau, nên có các việc sông huyết, sông tro, cát nóng,
biển-độc, bắt uống nước đồng-chảy vân vân...Vậy nên, tất-cả các đức
Như-Lai Mười phương nhận-xét lòng ngã-man, đồng gọi là uống nước si-mê;
Bồ-Tát đối-với ngã-mạn, tránh như vực-thẳm lớn.

Bốn, là tập-quán nóng giận, xung-đột cùng nhau, phát-sinh chống-đối lẫn nhau;
chống-đối mãi không thôi, tâm nổi nóng, phát ra lửa, nấu cái khí thành
kim-thuộc, vì thế, nên có núi dao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe gươm,
những búa, những vớt, những thương, những cưa; ví như, có người bị
hàm-oan, thì sát-khí nổi lên. Hai tập-khí đập nhau, nên có các sự thiến,
cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Vậy nên, tất cả các đức Như-Lai
thập phương nhận-xét sự nóng giận, đồng gọi là dao-gươm bén; Bồ-Tát đối
với lòng nóng giận, tránh như tránh chém giết.

Năm, là tập-quán giả-dối, dụ-dỗ theo nhau, phát-sinh lôi-kéo lẫn nhau; dẫn-dắt mãi không
thôi, như thế, nên có giây, cây, thòng-lọng, căng nọc; ví như, nước
thấm ruộng thì cỏ cây lớn lên. Hai tập-khí kéo nhau, nên có các sự gông,
cùm, xiềng, xích, roi, gậy, qua, bổng. Vậy nên, tất-cả các đức Như-Lai
thập phương nhận-xét sự giả-dối, đồng gọi là sàm-tặc; Bồ-Tát đối với sự
gian-dối, sợ như beo-sói.

Sáu, là tập-quán lừa-gạt, lừa-dối đối với nhau, phát-sinh phỉnh-gạt lẫn nhau; phỉnh-gạt mãi không thôi, phóng
tâm gây điều gian-dối; như thế, nên có bụi, đất, đại-tiện, tiểu-tiện,
các đồ nhơ-nhớp không sạch; như bụi theo gió, không thấy lẫn nhau. Hai
tập-khí dìm nhau, nên có những sự chìm-đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi
lăn. Vậy nên, tất-cả các đức Như-Lai thập phương nhận-xét sự lừa-gạt,
đồng gọi là cướp giết; Bồ-Tát đối với sự lừa-gạt, như giẫm rắn-độc .

Bảy,
là tập-quán thù oán, hiềm-khích lẫn nhau, phát-sinh ôm-ấp lòng giận,
như thế, nên có quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, bình đựng,
đãy-bọc, như người hiểm-độc ôm-ấp điều dữ. Hai tập-khí nuốt nhau, nên có
những sự ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo, ôm. Vậy nên, tất-cả các
đức Như-Lai thập phương nhận-xét sự thù oán, gọi là quỷ Vi-hại; Bồ-Tát
đối với sự thù-oán, như uống rượu-độc.

Tám, là tấp-quán ác-kiến, tranh-cãi với nhau, như ngã-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ và các
nghiệp tà-ngộ, phát-sinh chống trái lẫn nhau; như thế, nên có quan-lại
chứng-thực, nắm-giữ giấy to, đông như người đi đường, qua lại gặp nhau.
Hai tập-khí giao nhau, nên có các sự khám-hỏi, mưu-mẹo, khảo tấn, đòi
hỏi, gạn xét, cứu-tra cho rõ và những đồng-tử thiện-ác, tay cầm sổ sách,
biện-bạch cãi vã. Vậy nên, tất-cả các đức Như-Lai thập phương nhận-xét
ác-kiến, đồng gọi là kiến-khanh; Bồ-Tát đối với những thiên-chấp
hư-vọng, như đứng bên hố độc.

Chín, là tập-quán vu-vạ, làm hại cho nhau, phát-sinh sự vu-báng, như thế, nên có hợp-sơn, hợp-thạch,
cối-nghiền, cối-xay; ví như kẻ sàm-tặc áp-bức vu oan người lương-thiện.
Hai tập-khí bài-xích lẫn nhau, nên có các sự áp-giải, đè-đập, ép-huyết,
tuốt-mình. Vậy nên, tất-cả các đức Như-Lai thập phương, nhận-xét sự
vu-vạ, đồng gọi là sàm-hổ; Bồ-Tát đối với sự vu-vạ, như bị sấm sét.

Mười,là tập-quán kiện-thưa, cãi-vã lẫn nhau, phát-sinh sự che-đậy; như thế,
nên có gương soi, đuốc chiếu, như giữa ban ngày, không giấu bóng được.
Hai tập-khí phô bày lẫn nhau, nên có ác-hữu, nghiệp kính, hoả-châu phơi
bày nghiệp xưa đối nghiệm các việc. Vậy nên, tất-cả các đức Như-Lai thập
phương nhận-xét sự che-đậy, gọi là giặc-ngầm; Bồ-Tát đối với sự che
đậy, như đội núi cao, lội trong biển lớn.

ĐOẠN III

TÓM NÊU SÁU GIAO-BÁO

"Thế nào là sáu Giao-Báo? A-nan, tất cả chúng-sinh, sáu thức gây nghiệp, nên ác-báo chuốc-lấy, đều từ sáu căn mà ra.

ĐOẠN IV

KHAI-THỊ SÁU GIAO-BÁO

"Các ác-báo từ sáu căn ra như thế nào ?

Một, là giao-báo về thấy, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-thấy ấy giao-báo, thì lúc
lâm-chung, trước hết thấy lửa hồng đầy khắp 10 phương; thần-thức người
chết bay rơi theo khói vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là thấy
sáng, thì khắp thấy nhiều thứ vật dữ, sinh ra khiếp sợ vô cùng; hai là
thấy tối, lặng, vậy không thấy gì sinh ra hoảng-hốt vô-hạn. Lửa thấy như
thế, đối cái nghe, thì có thể làm vạc-dầu sôi, làm nước đồng-chảy; đốt
hơi-thở, thì có thể làm khói-đen, lửa đỏ; đốt cái nếm, thì có thể làm
viên tròn nung-đỏ, làm cơm-sắt; đối cảm-xúc, thì có thể làm tro-nóng,
lò-than; đốt tâm-ý, thì có thể sinh ra sao lửa rưới khắp, làm rung-động
cả cõi hư-không.

Hai, là giao-báo về nghe, chiêu-cảm ác quả. Khi nghiệp-nghe ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy sóng
cuộn chìm-ngập trời đất; thần-thức người chết, sa xuống theo dòng vào
ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là nghe tỏ, nghe các thừ ồn-ào,
tinh-thần rối loạn; hai là điếc hẳn, lặng-lẽ, không nghe gì, thức-thần
chìm lịm. Sóng nghe như thế, rót vào cái nghe, thì có thể làm trách, làm
hỏi; rót vào cái thấy, thì có thể làm sấm, làm thét, làm hơi độc dữ;
rót vào hơi thở, thì có thể làm mưa, làm mù, rưới các sâu độc đầy khắp
thân-thể; rót vào cái vị, thì có thể làm mủ, làm huyết, các thứ
nhơ-nhớp; rót vào cảm-xúc, thì có thể làm con súc, làm con quỷ, làm
phân, làm nước tiểu; rót vào ý-nghĩ, thì có thể làm chớp, làm mưa-đá,
đập nát tâm-thức.

Ba, là giao-báo về ngửi, chiêu-cảm ác quả. Khi nghiệp-ngửi ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy hơi-độc
đầy-giẫy xa gần; thần-thức người chết, từ dưới đất trồi lên, vào ngục
Vô-gian, phát-hiện ra hai tướng: Một là ngửi thông, bị các hơi dữ xông
tột-bực, làm cho tâm rối-loạn; hai là ngạt mũi, hơi-thở ngạt không
thông, nằm chết giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế, xông vào hơi-thở, thì
có thể làm thông, làm ngạt; xông vào cái thấy, thì có thể làm lửa, làm
đuốc; xông vào cái nghe, thì có thể làm chìm-ngập, làm chết-đuối, làm
nước-lớn, làm nước-sôi; xông vào cái vị, thì có thể làm đói, làm ngay;
xông vào cái cảm-xúc, thì có thể làm xấu, làm nát, làm núi thịt lớn có
trăm ngàn con mắt, hút-ăn không cùng; xông vào ý-nghĩ, thì có thể làm
tro, làm chướng-khí, làm gạch-đá bay lên đánh-nát thân-thể.

Bốn,là giao-báo về vị, chiêu-cảm ác-quả . Khi nghiệp-vị ấy giao-báo, thì
lúc lâm-chung, trước hết, thấy lưới sắt nung đỏ che khắp thế-giới,
thần-thức người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo ngược đầu xuống,
vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là nuốt vào, thì kết-thành
giá-lạnh, làm nứt-nẻ thân-thể; hai là mửa ra, thì bay lên thành
lửa-hồng, đốt-rụi xương-tuỷ. Vị -báo như thế, qua cái nếm, thì có thể
làm nhận, làm chịu; qua cái thấy, thì có thể làm các thứ kim-thạch đốt
cháy; qua cái nghe, thì có thể làm binh-khí sắc bén; qua hơi thở, thì có
thể làm lồng sắt lớn che khắp cõi nước; qua cảm-xúc, thì có thể làm
cung, làm tên, làm mỏ, làm bắn; qua ý-nghĩ, thì có thể làm sắt nóng bay,
từ trên xuống rưới xuống.

Năm, là giao-báo về xúc, chiêu-cảm ác-quả . Khi nghiệp-xúc ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy
núi lớn bốn mặt hợp lại, không còn đường ra; thần-thức người chết thấy
thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, hùm sói, sư-tử, ngục-tốt đầu trâu,
la-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào cửa thành, hướng về ngục
Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là hợp-xúc, thì núi kẹp ép mình,
xương-thịt nát ra máu; hai là ly-xúc, thì dao gươm chạm vào mình, tim
gan cắt-xẻ . Xúc-báo như vậy, qua cái xúc, thì có thể làm đạo, làm quán,
làm sảnh, làm án; qua cái thấy, thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái
nghe, thì có thể làm đập, làm trùm, làm đẫy, làm tra, làm trói; qua cái
nếm, thì có thể làm cày, làm kiềm, làm chém, làm chặt; qua ý-nghĩ, thì
có thể làm rơi, làm bay, làm nấu, làm nướng.

Sáu, là giao-báo về ý-nghĩ, chiêu-cảm ác quả. Khi nghiệp-ý ấy giao-báo, thì lúc
lâm-chung, trước hết thấy gió dữ thổi nát cõi nước, thần-thức người chết
bị thổi lên trên không xoay-rơi theo gió, sa vào ngục Vô-gián, phát ra
hai tướng: Một là không biết, tột mê, thì hoang-mang, ruỗi chạy không
thôi; hai là không mê, hay biết, thì khổ, bị đốt-cháy không cùng,
đau-buốt không chịu nổi. Ý-báo như thế, kết vào ý-nghĩ, thì có thể làm
phương, làm sở; kết vào cái thấy, thì có thể làm gương soi, làm
chứng-cứ; kết vào cái nghe, thì có thể làm đại-hợp-thạch, làm giá, làm
sương, làm đất, làm mù; kết vào hơi thở, thì có thể làm xe lửa, làm
thuyền lửa, cũi lửa; kết vào cái nếm, thì có thể làm kêu la to, làm
ăn-năn, làm khóc lóc; kết vào cái cảm xúc, thì có thể làm lớn, làm nhỏ,
làm cho một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng, làm ngửa.

ĐOẠN V

KẾT-LUẬN NÓI VỀ TẬP-NHÂN, GIAO-BÁO KHI TRÒN, KHI KHUYẾT VÀ ĐÁP LẠI LÀ GÂY NGHIỆP-RIÊNG MÀ CÓ ĐỒNG-PHẬN -CHUNG

"A-nan, thế gọi là 10 nhân và 6 quả của địa-ngục, nhân-quả ấy đều do mê-vọng của chúng-sinh tạo ra.

Nếu các chúng-sinh, sáu căn đồng-đạo nghiệp-dữ, thì vào ngục A-tỳ, chịu khổ
vô-cùng trong vô-lượng-kiếp; nếu từng mỗi căn tạo ra và nghiệp-dữ đã
làm gồm cả cảnh và căn thì người ấy vào 8 ngục Vô-gián . Nếu cả thân,
khẩu, ý làm việc sát đạo, dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không
đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý hoặc trong ấy chỉ làm một việc sát, hoặc
một việc đạo, thì người ấy vào Trong Tam-thập-lục-địa-ngục; chỉ có một
căn, riêng làm một việc, thì người ấy vào Nhất-bách-bát-địa-ngục.

Do những chúng-sinh ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ đồng-phận trong
giới ấy; đó đêu do vọng-tưởng phát-sinh ra, không phải bản-lai tự có.

ĐOẠN VI

KHAI-THỊ CÁC DƯ-BÁO

(Hết tội ở Địa-ngục, lại phải làm Ngạ-quỷ)

"Lại nữa, A-nan, các chúng-sinh đó, nếu không phải gây tội chê-phá luật-nghi, phạm
Bồ-Tát-giới, huỷ-báng Niết-bàn của Phật, mà chỉ phạm những nghiệp
phức-tạp khác, thì sau khi bị đốt cháy nhiều kiếp, đền tội hết rồi, thì
chịu những hình quỷ.

Nếu nơi bản-nhân, do tham vật mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vật thành-hình gọi là Quái-quỷ;
do tham sắc mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp gió
thành-hình, gọi là Bạt-quỷ; do tham dối-trá mà làm ra tội, thì người ấy
đền tội hết rồi, gặp giống súc thành-hình, gọi là Mỵ-quỷ; do tham
lừa-gạt mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp u-uẩn
thành-hình, gọi là Áp-quỷ; do tham ác-kiến mà làm ra tội, thì người ấy
đền tội hết rồi, gặp tinh-hoa thành-hình, gọi là Vọng-lượng-quỷ; do tham
vu-vạ mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp linh-hiển thành
-hình, gọi là Dịch-sử-quỷ; do tham bè -phái che dấu mà làm ra tội, thì
người ấy đền tội hết rồi, gặp con người thành-hình, gọi là
Truyền-tống-quỷ .

A-nan, những người đó đều vì thuần-tình phải đoạ-lạc, khi lửa-nghiệp đốt-sạch rồi, thì lên làm quỷ; như thế đều do
cái nghiệp vọng-tưởng tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ-đề, thì
nơi tính Diệu-viên-minh, vốn không có gì .

(Hết tội Ngạ-quỷ phải làm Súc-sanh)

Lại nữa, A-nan, khi nghiệp-quỷ đã hết, tình và tưởng cả hai đều thành
không, thì mới ở nơi thế-gian, cùng với người mắc nợ cũ, oán-đối gặp
nhau; thân làm súc-sinh để trả nợ cũ .

(Khi hết Ngạ-quỷ phải làm thú để trả nợ).

Quái-quỷ theo vật, vật tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài chim
kiêu. Bạt-quỷ theo gió, gió tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều
làm tất-cả những loài cữu-trưng kỳ-dị. Mỵ quỷ theo súc, súc chết báo
hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài hồ. Cổ-quỷ theo sâu, sâu
diệt báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài có độc. Lệ-quỷ theo
vận suy, suy tội báo hết, sinh nơi thế -gian, phần nhiều làm loài giun.
Ngạ-quỷ theo khí, khí tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm
loài cung-cấp thịt ăn. Áp-quỷ theo u-ẩn, u-ẩn tiêu hao hết, sinh nơi
thế-gian, phần nhiều làm loài cung-cấp đồ mặc.

(Như tôm, cá, cua, bò, heo dê gà v.v...và trừu, tằm).

Vọng-lượng-quỷ theo tinh-hoa, tinh-hoa tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm
các loại chim mùa. Dịch-sử -quỷ theo sự linh-hiển, linh-hiển diệt báo
hết, sinh nơi thế -gian, phần nhiều làm tất-cả các loài hưu-trưng.
Truyền -tống -quỷ theo người, người chết báo hết, sinh nơi thế-gian,
phần nhiều làm các loài quấn-quít bên người.

(Như làm mèo, chó v.v...)

A-nan,bọn ấy đều do lửa-nghiệp đốt xong, sinh ra loài súc, trả hết nợ cũ; như
thế, đều do những nghiệp hư-vọng của tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được
tính Bồ-đề, thì các vọng-duyên đó vốn không cò gì .

Như lời ông nói, bọn Bảo-liên-Hương, Lưu-ly-Vương, Thiện-Tinh tỳ-khưu đều vốn tự
mình gây ra nghiệp-dữ; nghiệp ấy không phải từ trên trời sa xuống, từ
dưới đất phát ra và cũng không phải do người khác đưa tới, mà chính do
vọng-tưởng của tự mình gây ra, rồi tự mình phải chịu quả-báo; nơi tâm
Bồ-đề, đó chỉ là sự kết động của vọng-tưởng giả-dối.

Lại nữa, A-nan, các súc-sinh ấy đền trả nợ trước, nếu trong lúc trả nợ, trả quá
nợ cũ, thì những chúng-sinh ấy, trở lại làm người, đòi lại chỗ thừa. Nếu
bên kia có sức, lại có cả phúc-đức, thì ở trong loài người, không rời
bỏ thân người, mà hoàn lại chỗ thừa đó; còn nếu không phúc-đức, thì phải
làm súc-sinh đền lại chỗ thừa.

A-nan, nên biết, nếu dùng tiền của hoặc sức người ta, thì đền đủ là xong; còn như trong ấy, có giết
thân-mạng, hoặc ăn thịt kẻ khác, như thế, thì đi đến ăn nhau, giết nhau,
trải qua nhiều kiếp, só như vi-trần, cũng như bánh xe xoay-vần,
thay-đổi bên cao, bên thấp, không có dừng-nghĩ; trừ khi được phép
Xa-ma-tha, hoặc gặp Phật ra đời, thì không thể thôi được.

(Trở lại làm người theo tham hợp mà sống).

Nay ông nên biết loài chim kiêu kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh
trong nhân-đạo, tham-hợp hạng ngoan-cố. Giống cữu-trưng kia, trả nợ đủ,
trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham-hợp hạng quái-dị . Những
loài hồ kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo,
tham-hợp hạng ngu-dại. Những loài có độc kia, trả nợ đủ, trở lại hình
người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng nham-hiểm. Những loài giun
kia, trở nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng
hèn-nhát. Những loài cung-cấp thịt ăn kia, trả nợ đủ, trở lại hình
người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng nhu-nhược . Những loài
cung-cấp đồ-mặc kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo,
tham-hợp hạng lao-luỵ. Những loài chim mùa kia, trả nợ đủ, trở lại hình
người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng văn-hoa. Những loài hưu-trưng
kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng
thông-minh. Những loài quấn-quít theo người kia, trả nợ đủ, trở lại hình
người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng thông-đạt .

A-nan, bọn ấy trả hết nợ cũ, trở lại hình người đều do từ vô-thỉ đến nay,
điên-đảo gây nghiệp, vay trả thừa thiếu, sinh nhau, giết nhau; nếu không
gặp Như-Lai, không nghe Chính-pháp, thì ở trong trần-lao, máy móc xoay
vần mãi mãi; bọn ấy gọi là thật đáng thương-xót.

Đoạn kinh Đức Phật dạy về Mười Tập Nhân và Sáu Giao-Báo đến đây đã hết. Hẳn chư
Liên-hữu đã thấy, và như chúng tôi trình bày, giữ được nhơn đạo rất là
quý, nhưng chúng ta không sao bảo đảm được, nếu lúc lâm chung gặp phải
nghiệp duyên xấu. Mà nếu đã lọt vào địa-ngục thì phải theo ác-nghiệp
chồng chất từ vô số kiếp; nếu nghiệp của chúng ta có hình tướng như một
cái nhà thì nó chồng chất đầy cả bầu trời này rồi, thì sau địa-ngục vô
số kiếp phải qua làm Ngạ-quỷ trả nợ vô vô kiếp, rồi làm Súc-sanh vô số
kiếp. Nơi nào cũng vô số kiếp.

Thật là đáng ghê sợ!

Chỉ vì thấy rõ chỗ ghê sợ này của quả địa -ngục mà trong sách Kinh Niệm
Phật Ba-La-Mật Sưu-Giải, chúng tôi tư duy lời Phật dạy, cố gắng trình
bày thứ lớp, bất chấp sự ngộ nhận, với ước mong những ai đã tu sai đường
Phật dạy về pháp môn của thời mạt pháp này, hãy trở lại đường đúng .
Như chúng tôi đã trình bày, tu trật đường có thể rời vào đường dữ .

Pháp môn Phật dạy của thời này là Niệm Phật .

Niệm Phật có thể thành Phật ngay trong đời. Niệm Phật có thể cứu độ thân
nhân trong Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh và cả thân nhân đang ở cõi
A-tu-la hay cõi Trời. Hoà -Thượng Tịnh-Không nói, ngay sau khi chúng ta
pháp tâm Bồ-đề, tinh chuyên Niệm Phật rồi thành tâm hồi hướng công đức,
là chúng ta đã cứu độ thân nhân rồi .

Dựa theo sách của các bực Tôn đức Tăng Ni, chúng tôi xin trích đăng ba trường hợp cứu thân nhân nơi Địa-ngục.

1.
Có một anh Bà-la-môn lấy người vợ theo đạo Phật. Vợ anh ta mỗi đêm đều
tụng kinh niệm Phật, bắt chồng phải gõ chuông, tụng kinh niệm Phật xong
mới cho vô ngủ. Bỗng nhiên anh ta chết, bị đưa xuống địa-ngục. Lúc anh
đứng gần chảo dầu sôi, một quỷ tốt cầm chuỳ đập anh ta; anh ta liền né,
quả chuỳ trúng vào chảo kêu boong. Nhớ đến tiếng chuông đánh mỗi đêm lúc
vợ anh ta đang niệm Phật, anh ta liền la lên: "Nam-mô Phật"! Bỗng nhiên
xiềng xích của tội nhân trong ngục đều đứt hết. Tất cả đều Vãng Sanh
Tịnh-Độ (trích ý trong sách Oai Đức Câu Niệm Phật của Thầy
Tích-Trí-Minh).

2. Kinh Luật Dị-Tướng nói: Có ông Vua hại cha
soán ngôi, bảy ngày nữa phải đoạ địa-ngục. Khi đó Vua gặp một vị Tôn giả
dạy: "Đại Vương nên nhất tâm niệm Nam-Mô Phật". Vua liền nhứt tâm niệm
Phật liên tiếp bảy ngày không trễ nãi, khi mạng chung đến địa -ngục,
miệng còn niệm Nam-mô Phật; tất cả tội nhân trong ngục đều đặng
giải-thoát (trích sách A-Di-Đà Sớ Sao của Ngài Vân-Thê, do Hoà-Thượng
Thích-Hành-Trụ dịch).

Hai câu chuyện này, cùng với chuyện ông
Trương-Thiện-Hoà, đã nói ở trước, chúng ta biết rõ oai lực câu niệm
Phật. Tuy nhiên, Kinh Hoa-Nghiêm nói:

"Thà chịu khổ trong Địa-ngục, mà được nghe danh-hiệu chư Phật, chớ chẳng muốn sanh trong cõi
Trời, mà chẳng đặng nghe danh hiệu Phật" (trích A-Di-Đà Sớ Sao).

Vì,khi chúng sanh niệm Phật và hồi hướng côn-đức cho ông bà, đâu có ai
nghĩ đến hồi-hướng công-đức cho mấy vị trời ở Thiên-giới, mà chỉ hồi
hướng cho Địa-ngục . Nên ở trên trời ít được nghe niệm Phật, chúng sanh ở
Địa-ngục mới được nghe. Nên Kinh mới nói: "Thà chịu khổ trong Địa-ngục
mà được nghe danh hiệu chư Phật".

Tất cả danh-hiệu Phật đều bất khả tư nghị . Nhưng danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật thù thắng hơn, bởi do
bản-nghiệp trong hai tiền kiếp của Ngài. Phải do nguyện lực tiếp dẫn
của vị Phật nào, thì người niệm danh hiệu của vị Phật ấy mới được tiếp
dẫn.

Dưới đây là chuyện một vị Pháp Sư tên Đạo Trân chuyên
giảng Kinh Niết-Bàn . Ngài rất mộ pháp tu Tịnh-độ của Ngài Viễn-Công.
(Nhưng không phát nguyện Vãng Sanh). Nhơn khi thiền định, Ngài bỗng thấy
trong biển có vài trăm người ngồi trong thuyền báu đi ngang trước mặt .
Ngài bèn hỏi đi đâu có vậy ? Người trong thuyền đáp:

- Chúng tôi về nước Cực-Lạc .

Ngài yêu cầu cho quá giang. Nhưng mấy người trong thuyền kìa nói:

-
Pháp sư tuy giảng Kinh Niết Bàn rất hay, công-đức rất lớn. Nhưng mà
Ngài chưa tụng Kinh A-Di-Đà, thì đâu được cùng chúng tôi về Cực-Lạc.

Từ đó Pháp sư nghĩ giảng Kinh Niết -Bàn, bắt đầu niệm Phật và tụng Kinh
A-Di-Đà đến hai vạn biến (mỗi ngày). Khi sắp lâm chung, cuối ngày thất
thứ tư, ban đêm vào canh tư, Ngài thấy phương Tây có người bưng đài bạc
đến, giữa hư không sáng hực như ban ngày. Có tiếng kêu rằng: Pháp sư lên
ngồi đài này để mà Vãng Sanh.

Lúc ấy cả đại chúng đều nghe nhạc trời và mùi hương lạ. Những mùi hương quí này đến mấy ngày vẫn còn
thơm. Đêm đó chúng Tăng ở chùa Phong Đảnh xa xa thấy trong miệng hang có
vài mươi ngọn đuốc cháy sáng suốt đêm. Ngày sau mới biết Pháp sư qua
đời. (trích Kinh A-Di-Đà Sớ Sao của Ngài Vân Thê).

Như thế chúng ta thấy rõ, dù tu cao tới bực Pháp Sư, nhưng chưa hề phát nguyện
Vãng Sanh và xưng niệm danh-hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, cũng không được
Vãng Sanh Cực-Lạc.




Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 8:42 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:25 am

CHƯƠNG MƯỜI BỐN : Tổng kết kinh-nghiệm niệm Phật của các vị đã Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi
Tôi đây xin đúc kết những kinh-nghiệm niệm Phật của những vị đã Vãng Sanh,
trong cuốn "Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi".

I. Sư bà Đàm-Lựu

Sư bà là đệ tử của Sư bà Đàm -Soạn, mà Sư bà Đàm -Soạn đã đắc quả
Vãng Sanh. Lúc sanh tiền Sư bà đã có kinh-nghiệm niệm Phật rồi, nên Sư
bà niệm Phật rất nghiêm mật . Sư bà thừa hiểu hơn chúng ta về kinh-điển .
Sư bà biết rằng, dù bình -thường đã không ngừng niệm Phật, nhưng
quan-trọng là lúc lâm chung phải giữ sao cho tâm không điên-đảo, Mười
niệm nối tiếp liền nhau.

Kinh-nghiệm chúng ta học nơi Sư bà là
cái máy niệm Phật, nó nhắc nhở ta phải giữ chánh -niệm . Vì lúc gần mất,
Sư bà bảo đệ tử mua một máy cassette phát liền 24 giờ liên tục .

Thứ đến là sự trợ -niệm . Do ở chổ Sư bà là người xuất gia, lại có cảm tình
nhiều với Tăng Ni khắp nơi, nếu có ai được xem cuốn phim lúc Sư bà hấp
hối, thì thấy rõ Sư bà được trợ niệm thật tích cực .

Như vậy Sư bà có đủ 4 điều cần thiết ít người có được:

1. Sư bà phát tâm Vô-Thượng Bồ-Đề ngay từ khi xuất gia nên tâm Sư bà dễ tương ưng với tâm từ bi của Phật A-Di-Đà .

2. Sư bà chuyên nhứt tâm niệm Phật ngày đêm, nên dễ nhiếp cả sáu căn.

3. Giữ chánh niệm lúc sắp lâm chung.

4. Được sự trợ niệm lớn lao và không ngừng của chư Tăng Ni, Phật tử và máy trợ niệm .

II. Sa-di Thích-Minh-Đạt

Phật và chúng sanh đều bình-đẳng. Dù Thầy Minh-Đạt xuất gia trễ,
nhưng Thầy đã phát-tâm Vô-thượng Bồ-đề và hành Bồ-Tát hạnh thật
kiên-cường dũng mãnh, xã thân hoằng pháp độ sanh, cho đến lúc gần lâm
chung vẫn lo đi độ người, lúc Thầy đang bịnh. Chẳng phải tất cả người
xuất gia đều có được cái tâm Bồ -Tát như Thầy Minh-Đạt. Bởi tâm Thầy và
tâm Phật tương ưng, như Hoà-Thượng Tịnh-Không nói: "Người có tâm Bồ-đề
như vậy chỉ cần một niệm là Phật đến tiếp dẫn ngay." Có người tu lâu hơn
Thầy Minh-Đạt, nhưng thiếu thực-hành Bồ-Tát hạnh, chưa chắc được vãng
sanh.

Cho nên trong sách này, chúng tôi tích-cực nhắc nhở, đề
cao và khuyến khích chư liên-hữu hãy phát tâm Bồ-đề, nguyện tu niệm Phật
để thành Phật và thực-hành Bồ-Tát hạnh, giúp đỡ chỉ dẫn người khác tu
niệm Phật, như vậy niệm Phật chắc chắn được Vãng Sanh.

Trong đoạn này chúng tôi không đề cập đến vấn-đề Xá-Lợi vì chỗ quang trọng là,
có được Vãng Sanh hay không ? Và việc Vãng Sanh có được Xá-Lợi, là cái
mà chúng ta thấy được bằng mắt và bằng tay cầm biết được, nếu chúng ta
may mắn hiện diện tại chỗ.

III. Bà Diệu Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết

Bà Tuyết may mắn được làm đệ tử một vị Hoà-Thượng chuyên tu Tịnh-độ và giảng Kinh A-Di-Đà . Đó là Tịnh-Không Pháp Sư.

Cái mà chúng ta thấy ngay, bà đã phát tâm Bồ-đề, chuyên nhứt niệm Phật. Khi
chưa lâm bịnh, bà đêm suốt đời còn lại bằng hành-động phổ-biến Pháp môn
Niệm Phật, lo việc gởi kinh sách Phật và băng giảng của Hoà-Thượng
Tịnh-Không đi khắp nơi.

Có nhiều người cũng cùng làm công việc
phổ-biến băng giảng của các Thầy, nhưng nếu băng giảng không chuyên về
Tịnh-độ, cái nhân không phải Tịnh-độ thì cái quả, không phải là Vãng
Sanh Cực-Lạc .

Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phổ-Hiền Bồ-Tát
nói nhân và quả phải đi liền với nhau. Trồng nhân Tịnh-độ được quả
Cực-Lạc Tịnh-độ. Như chúng tôi có trích kể chuyện Pháp sư Đạo Trân
chuyên giảng Kinh Niết-Bàn, muốn về Cực-Lạc không được; sau phải đổi qua
Pháp môn niệm Phật mới được Vãng Sanh.

Khi biết mình mang bịnh ung thư, bà Tuyết dứt tất cả các duyên bên ngoài, không tiếp xúc với
mọi người hầu giữ cho tâm được thanh tịnh, tránh mọi phiền não. Bà nhứt
tâm niệm Phật.

Một người niệm Phật được như bà Diệu-Âm thì quả Vãng Sanh chắc chắn đạt được .

Khi bà ngưng niệm Phật, đôi lúc bà thấy oan hồn kéo đến thật đông; bà phải
la lên cầu cứu Phật A-Di-Đà và bà niệm Phật thì oan hồn biến mất. Từ đó
bà Diệu-Âm niệm Phật không ngừng nghỉ.

Niệm Phật như bà Diệu Âm
chắc chắn được Vãng Sanh và khi lâm chung, có Phật và Thánh chúng đến
đón, có hương thơm ngào ngạt, hào quang sáng cả nhà.

Tuy là phàm phu, nhưng quả chứng của bà Diệu -Âm trội hơn cả bặc xuất gia.

Tại sao ?

Vì tại gia hay xuất gia, chúng sanh đều bình -đẳng chỉ khác nhau ở chỗ tu của mỗi người, cao hay thấp tuỳ ở sự hành trì .

Chúng tôi tin chắc chắn, trong quý chư liên-hữu sẽ có vị sẽ chứng quả Vãng
Sanh thật cao, vì qua các cuộc điện đàm với nhiều vị, chúng tôi biết có
nhiều vị tiến bộ đáng kể. Và khi đọc sách này, sẽ có thêm nhiều vị khác.
Chẳng phải sách này viết hay, mà do chúng tôi ghi chép được đa số tinh
ba chỗ dạy niệm Phật của các bậc Tôn đức, giúp cho chư vị học hỏi.

Trở lại bà Diệu-Âm, bà có đủ các điều kiện cần thiết như sau:

1. Phát tâm Bồ-đề niệm Phật . Niệm một niệm, Phật và Thánh chúng tiếp dẫn ngay.

2. Niệm Phật nhất tâm.

3. Giữ chánh-niệm lúc lâm chung. Người giữ được chánh niệm thì tâm mới không điên đảo. Ngược lại sẽ bị mê loạn.

4. Được trợ niệm đầy đủ.

Thêm nữa bà Diệu âm có được cái may mắn lớn là sự hiện-diện của Hoà -Thượng
Tịnh-Không lúc lâm chung. Ngài là bậc thầy vĩ đại đã khai thị cho bà.
Lại có Tăng Ni và một ban Hộ-Niệm được huấn-huyện thật nghiêm-minh. Lòng
chúng tôi ao ước mỗi vùng Việt-Nam đều có một ban Hộ-Niệm như vậy thì
Phật tử Việt-Nam sẽ Vãng Sanh vô số.

Chư liên-hữu nên vận động các chùa, hoặc tự mình kết hợp thành ban Hộ -Niệm địa phương, lập ra
phương cách và quy điều trợ niệm, thì tất cả sẽ được an tâm...

Hoà-Thượng Thích-Thiện-Tâm có kể chuyện một nhà Sư Việt-Nam hồi đời hậu Lê ở chùa
Quang-Minh. Công hạnh niệm Phật của vị Sư này tuy có, mà nguyện tâm
không chí thiết, nên chẳng được Vãng Sanh.

Tại sao không chí thiết ? Vì nhà sư tưởng đâu mình là người xuất gia, ở chùa và niệm Phật
mỗi ngày là đủ rồi, nên không quan tâm đến vấn-đề chí thiết phát nguyện
Vãng Sanh. Đến chừng lâm chung, nhà Sư Việt thọ sanh làm Vua Nhà Thanh
bên Tàu, nhớ có nhiều phước đức .

Một hôm, nhơn nhà Vua dùng nước giếng của một ngôi chùa, rửa vết chữ son ghi tiền kiếp trên vai,
nhà Vua bỗng ngộ biết kiếp trước của mình, bèn cảm khái làm hai câu thơ:

Ngã bằng Tây Phương nhứt Phật tử,

Vân hà lạc tại Đế-vương gia ?"

Ý nói:

"Ta vốn là con của Phật A-Di-Đà ở Tây-Phương.

Cớ sao lại lạc vào nhà Đế-vương như thế nầy ?"

Cho nên điểm cần yếu nhứt vẫn là chữ Nguyện. Muốn Vãng Sanh Cực-Lạc phải
phát-nguyện Vãng Sanh trước nhứt, đồng phát tâm Bồ-đề, nguyện niệm Phật
để thành Phật .

Khi Tín và Nguyện vững chắc rồi thì tới công
hạnh. Dù đủ Tín và Nguyện, mà thiếu công phu trì niệm hồng danh Phật
A-Di-Đà cũng chẳng thành tựu.

Ở chương trước chúng tôi sưu tập
nhiều phương cách niệm Phật của các bực Tôn đức dạy, chư liên-hữu có thể
dùng cách nào thích hợp cho mình là được .

Nhưng phải cố giữ sao cho đừng gián đoạn và bê trễ. Nếu chư vị nguyện mỗi ngày từ một ngàn
đến mười ngàn niệm, thì nên cố giữ sao cho được đúng, không sai chạy.
Cho nên, các Ngài mới dạy phương cách niệm Phật công cứ, nghĩa là niệm
Phật ghi sổ rành rọt mỗi ngày không trật số. Thà rằng niệm số nhiều hơn,
chớ không sụt giảm.

Cuộc sống của con người là thói quen. Thói
quen tốt, lâu ngày huân tập thành nhiều điều tốt. Nếu một người niệm
Phật tốt, lâu ngày sẽ kết thành khối cứng rắn như kim cương.

Thói quen niệm Phật công cứ dưới đây là một bài học rất quý (trích trong Niệm Phật Thập Yếu) như sau:

"Đời Nguyên bên Trung-Hoa, vào năm Canh-Ngọ niên-hiệu Chí-Thuận ở vùng Thiết
Tây bị thất mùa liên tiếp. Trong thành Hàng Châu, dân chúng đói chết
nằm ngổn ngang đầy đường. Mỗi sáng, quan Phòng-chánh mướn người khiên tử
thi chở đem bỏ xuống hang núi sau tháp Thái-Hoà. Trong số tử thi có
thây một bà lão, hơn mười hôm không hôi thúi, ngày nào cũng tự trồi lên
nằm trên các thây chết khác. Chúng lấy làm lạ, vòng dây kéo đem lên,
sóat trong người thấy có túi vải đựng ba bức đồ "niệm công cứ A-Di-Đà
Phật".

Việc này truyền đến quan Hữu -tư, Ngài cho quan quách
tẩn niệm và đem ra thiêu hoá. Khi đốt củi lên, trong khói lửa hiện ra
tượng Phật, Bồ-Tát ánh-sáng rực rở. Do nhân duyên đó, rất nhiều người
phát tâm niệm Phật (trích Sơn-Am Tập-lục)

Đọc chuyện này hẳn chư liên-hữu cũng đồng ý với chúng tôi về các điểm:

1. Bà lão ấy đã niệm Phật đến trình độ thật thanh-tịnh cho nên thân xác chết đã mười ngày mà không một chút hôi thúi .

2.
Bà lão ấy lúc sanh tiền đã niệm Phật nhứt tâm, giữ đúng 5 giới cấm của
Phật nên lúc nào cũng có 25 vị Thiên Thần Hộ Pháp theo bảo vệ, cho nên
thây bà bị các thây khác đè lên, mà hôm sau lại trồi nằm lên trên các
xác khác.

3. Khi được đem thiêu, trong lửa đỏ lại hiện ra tượng Phật và Bồ-Tát với ánh sáng rực rỡ .

Người niệm Phật công cứ lúc nào cũng cố gắng ghi số đều đặn. Đặc biệt bà lão
ấy, dù khi đói không có gì để ăn, phải chết mà vẫn niệm Phật, quả là
đáng kính phục, nên sau khi mọi người biết được, rất nhiều người phát
tâm tu theo pháp môn niệm Phật.

Lời khuyên sau cùng

Hẳn chư liên-hữu cũng đồng ý với chúng tôi, niệm Phật công cứ còn được gọi
là "Sổ châu trì danh" nếu dùng chuỗi niệm Phật, là một phương thức nên
áp dụng.

Chúng tôi xin tổng-hợp một phương-thức niệm Phật chọn lọc từ phương-thức của các bực Tôn đức lấy niệm Phật công-cứ làm căn bản:

Phương-thức niệm Phật tổng hợp:

1. Miệng vừa niệm, tai vừa nghe vào trong, kiểm soát từng câu từng
chữ rõ ràng . Nếu có thể, nên dùng một máy niệm Phật hướng dẫn và tai
nghe tiếng niệm Phật của máy "chíp", vì tiếng niệm Phật vừa đều đặn rõ
ràng, không mau, không chậm . Chúng tôi dùng 4 chữ A-Di-Đà Phật .

2.
Có thể niệm thầm hay se sẽ tiếng, nương theo hơi thở, mỗi hơi thở ra
vào là một câu niệm Phật. Bởi mạng sống con người liên quan vào hơi thở,
nếu biết nương theo câu thở mà niệm, thì sống hằng không rời Phật, lúc
lâm chung liền về Cực-Lạc.

(Chư vị nào đã nghe máy "chip" bốn chữ A-Di-Đà Phật, để ý thấy 5 câu là một đoạn nhịp).

3.
Khi niệm Phật tuyệt đối không nhắm mắt, bởi nhắm mắt bất chợp có thể
thấy hình tướng bất tịnh hiện ra làm sao động tâm. Khi niệm hãy tưởng
mình đang ngồi trong vòng hào quang của Đức Từ phụ A-Di-Đà che chở, dễ
làm thần trí sáng suốt, sớm đạt Niệm Phật Tam-muội.

Ba tiết 1,2,3 trên đây được kết thành một và luôn luôn ghi nhớ, bền giữ khi niệm
Phật . Rồi áp dụng công cứ niệm Phật . Cách công cứ của chúng tôi không
cần ghi sổ, nếu muốn dùng chuỗi hay không đều được . Không dùng chuỗi
thì lấy mười ngón tay của hai bàn tay, từ ngón út của bàn tay phải co
lên để đếm một niệm, đếm lần qua ngón út của bàn tay trái là đủ 10 niệm .
Cứ như thế tiếp tục niệm Phật và đếm tiếp . Khi ngồi, đứng đi, hoặc
đang lái xe, hay làm các việc đều có thể đếm được . Qua đủ 10 ngón tay
kể một ghi nhớ thầm là một và niệm qua 10 lần là được 100 niệm .

Chúng tôi còn một cách khác dễ hơn, là niệm theo tiếng niệm Phật của băng
chip hoặc cassette với 4 chữ A-Di-Đà Phật . Chúng tôi đã đếm 1 phút là
18 niệm . Như vậy mỗi một giờ chư vị niệm được 1080 niệm . Nếu sáng niệm
Phật một giờ, tối niệm Phật một giờ, chư vị được 2.160 niệm . Nếu niệm
Phật 10 tiếng đồng hồ sẽ được mười ngàn tám trăm niệm (Niệm 6 chữ Nam-Mô
A-Di-Đà Phật sẽ ít niệm hơn).

Chư Tổ Tịnh -Độ ngày xưa niệm 30
ngàn niệm mỗi ngày. Đây là các Ngài dùng ý để niệm, không động môi nên
niệm nhanh hơn. Chư Tổ dùng 16 giờ niệm Phật. Nếu ai niệm được như vậy,
tâm không có vọng niệm, không chấp trước, không nhớ tưởng phân biệt,
chắc chắn sẽ Vãng Sanh Thượng Phẩm Thượng Sanh. Tổ Ngẫu-Ích gọi là Thực
Báo Trang-Nghiêm Tịnh-Độ, hoặc cao hơn nữa là cõi Thường-Tịch-Quang
Tịnh-Độ.

Muốn chắc được Vãng Sanh Nên Nhập Thất niệm Phật

Khi viết sách "Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh" này, chúng tôi tìm thấy trong Kinh Tiểu Bổn A-Di-Đà có câu:

"Xá-Lợi Phất! Nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, được nghe nói đến Phật
A-Di-Đà, rồi nhớ giữ lấy danh-hiệu của Ngài, hoặc niệm một ngày, hoặc là
hai ngày, hoặc là ba ngày, hoặc là bốn ngày, hoặc là năm ngày, hoặc là
sáu ngày, hoặc là bảy ngày, một lòng chẳng loạn thì kẻ thiện nam, người
thiện nữ ấy lúc lâm chung, Phật A-Di-Đà và Thánh Chúng hiện trước người
ấy. Kẻ sắp mất này tâm chẳng điên đảo, liền được Vãng Sanh Cực -Lạc của
đức Phật A-Di-Đà (Bổn Kinh này do Thầy Thích-Thiện-Thông dịch).

Kinh nói, tối thiểu phải niệm Phật một ngày "nhứt tâm bất loạn" tức là một
lòng chẳng loạn, thì chắc chắn được Đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn. Đây có
nghĩa là Phật dạy phải Phật Thất tối thiểu là một ngày, hoặc là phải bảy
ngày. Vì niệm Phật tối thiểu một ngày thì tâm thể mới thanh tịnh được,
thì mới chứng được Sơ phần Pháp thân.

Như Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phật Thích-Ca nói: Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm
danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì uy lực bất-khả tư-nghị của danh hiệu
khiến cho Tâm-thể thanh-tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự
nhiên chứng nhập Sơ phần Pháp thân..."

Vì khi niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật một ngày sáu thời cho đến bảy ngày thì có thể chứng
được Sơ-phần Pháp thân, tức chứng Sơ-địa Bồ-Tát.

Ở đây, theo Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, mỗi thời là 4 tiếng đồng hồ .

Cũng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm dạy liên tiếp 14 đoạn cũng nhắc 1 ngày đến 7 ngày .

"Bất cứ chúng sah nào chuyên tâm trì niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật dầu
chỉ một ngày cho đến bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì cảm ứng
những năng lực tổng trì không thể nghĩ bàn" (trang 93). Ở trang khác
Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói: "Bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu, hoan
hỉ thọ trì danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phặt hoặc một ngày, hoặc bảy ngày
hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp quyết-định bất khả tư
nghị" (trang 100).

Hẳn chư liên-hữu lưu ý thấy, Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói chỉ cần niệm Phật 1 ngày hoặc 7 ngày. Nhưng một ngày này
phải là trọn ngày sáu thời đều nhứt tâm niệm Phật không tạp nhạp, không
có vọng niệm, không nhớ, không tưởng, không chấp trước phân biệt thì sẽ
đắc các mười pháp quyết định, trong đó có một quyết định hoá sanh tự nơi
hoa sen, cùng một chỗ với chư Phật và chư Bồ-Tát .

Như vậy người niệm Phật này đã đắc quả Vãng Sanh, tự sanh nơi hoa sen, ở chung
với Phật A-Di-Đà và chư vị Thánh-chúng. Ở trên Đức Phật nói: "Tự nhiên
chứng nhập Sơ-phần Pháp thân mà người đó không hề hay biết".

Đức Phật đã nói thì chắc chắn không bao giờ sai. Chúng tôi liền nhớ lại tiền thân của Địa-Tạng Bồ-Tát.

Từ chỗ này chúng tôi nghĩ, nếu chúng ta mỗi tuần, dành ra trọn một ngày,
hoặc hai ngày chuyên thuần niệm Phật, chắc chắn khi lâm chung chúng ta
sẽ Vãng Sanh.

Do chỗ này chúng tôi nghiên cứu soạn cuốn sanh
Sám Nguyện Vãng Sanh. Khi viết cuốn này, chúng tôi được một liên-hữu ở
bên Úc, cô Diệu-Thanh gởi biếu cuốn Khai-Thị của Hoà-Thượng Tịnh-Không,
một bực chân tu chuyên giảng phép môn Tịnh-Độ, Ngài cũng dạy y như chúng
tôi nghĩ.

Quả như lân gặp pháo, lân liên vui mừng nhảy múa
tưng bừng. Đọc các lời kinh trên, chúng tôi vững tín bất cứ ai trong
chúng ta nhất tâm niệm Phật một ngày một đêm thôi, tâm thể sẽ
thanh-tịnh, chúng ta sẽ được chứng quả đúng như lời Đức Phật dạy không
sai.

Trong sách Khai-thị, Hoà-Thượng Tịnh-Không viết:

"Nếu trong một tuần bảy ngày, quý vị có được một ngày chuyên nhất niệm Phật,
đạt được tâm không sanh không diệt và nhất thiết đà-ra-ni, như vậy quý
vị đã giỏi lắm. Mỗi tuần một ngày đến niệm Phật trong vòng ba năm, quý
vị sẽ thành Phật ngay".

Tóm lại, mỗi tuần có một ngày niệm Phật
là một điều cần thiết không thể thiếu được, nếu muốn cầm chắc được Vãng
Sanh. Giả như gần nhà chư liên-hữu có chùa đang tổ-chức Phật Thất thì
nên đến chùa, để được sự hướng dẫn chu đáo. Nếu không có chùa gần nhà
thì cố đi xa, nếu chùa xa đang tổ-chức Phật Thất.

Nếu không thể
tìm được chùa thì ở nhà tự mình niệm Phật cũng vẫn tốt. Rủ thêm bạn bè
đến chung niệm Phật với mình, hoặc chỉ nhất tâm niệm Phật nương theo
băng niệm Phật 4 chữ A-Di-Đà Phật, hoặc áp dụng cuốn Sám Nguyện Vãng
Sanh. Nếu có được cuốn băng Sám-Nguyện Vãng Sanh thì tiện lợi hơn.

Nếu chư liên hữu nào niệm Phật mỗi tuần tối thiểu là một ngày, thì công phu
niệm Phật của chư liên-hữu dễ được thành khối. Hoà-Thượng Tịnh-Không
viết trong cuốn Khai-thị của Ngài như sau:

"Công phu niệm Phật của chúng ta một khi đã thành khối, không những thân bằng quyến thuộc
trong kiếp này, thậm chí đến nhiều đời kiếp trước mà chung ta không
biết, hoặc không thể nhớ, họ vẫn được siêu độ. nghĩ đến việc này, nếu
chúng ta không siêng năng nỗ lực tu hành, chúng ta thật có lỗi với ông
bà tổ tiên, thân bằng quyến thuộc vậy".

Hôm nay họ còn kẹt ở trong ác đạo, không có khả năng giải thoát, nên họ hoàn-toàn trông cậy ở chúng ta.

Trước đây chúng tôi dẫn chứng với chư liên-hữu về tiền thân của Đức Địa-Tạng
Bồ-Tát là cô gái Bà-la-môn, cô niệm Phật một ngày một đêm liền cứu được
ngay bà mẹ đang ở địa-ngục Vô-Gián. Đó là do cô gái Bà-la-môn niệm Phật
được thành khối, khiến chúa Địa-ngục gặp cô gái Bà-la-môn liền chắp tay
gọi là Bồ-Tát .

Ở đây, Hoà-Thượng Tịnh-Không cũng nói, công phu
niệm Phật của chúng ta khi đã thành khối, không những thân bằng quyến
thuộc của chung ta ở kiếp này, thậm chí nhiều đời nhiều kiếp trước mà
chúng ta không biết hoặc không thể nhớ, họ vẫn được siêu độ.

Cho nên, Hoà Thượng Tịnh-không nói tiếp, niệm Phật không phải chỉ vì mình, mà vì thân bằng quyến thuộc, vì tất cả chúng sanh.

Tiện đây, xin cống hiến chư liên-hữu một câu chuyện để chứng minh niệm Phật
trọn ngày, tâm thể thanh tịnh tự nhiên được định. Kinh nói chứng được
Sơ-phần Pháp thân mà người ấy không hề hay. Chuyện này trích trong cuốn
Hư Hư Lục của Sư cô Như Thuỷ: Cụ Già Tu Mướn

Thiền sư Bạch-Ẩn ở Nhật Bản có một tục gia đệ tử. Ông đệ tử này thường đến than phiền rằng
cha gài của y, dù tuổi đã cao, vẫn cứ mài mê làm việc kiếm tiền chứ
không chịu tu hành gì ráo. Mỗi lần y nhắc nhở thì ông cụ quả quyết khẳng
định:

- Nếu chuyện tu hành mà té tiền té bạc thì hãy nói với ta, bằng không thì đừng hòng!

Hôm nọ nghe xong mỗi băn khoăn của người đệ tử, Thiền sư liền bảo:

-Chiều nay con hãy về bảo với cha con rằng: Hoà-Thượng Bạch-Ẩn bận bịu việc
quá dỗi nên không thể tu hành như ý muốn được. Ngài nhờ con tìm một
người tu mướn. Cứ 10 chuỗi niệm Phật là một quan tiền. Cần chọn người
trung hậu làm ăn sòng phẳng để ký giao kèo trao đổi. Người làm mướn có
thể lãnh tiền mỗi ngày hoặc hàng tuần cũng được.

Sau đó giao kèo ký kết, ông cụ cứ đến chùa lãnh tiền mỗi ngày . Về sau để khỏi mất thì giờ, cụ để dồn hàng tuần mới lãnh .

Bẵng đi một thời gian không thấy ông cụ lãnh tiền. Người con trai theo lời
dạy của Hoà-Thượng, cứ để cha già làm theo ý muốn . Ngoài ba bữa ăn, ông
cụ ngồi ngay ngắn trước điện Phật ...và làm mướn . Cho đến một hôm, hơi
thở điều hoà . Người con liền đến báo tin cho Hoà -Thượng hay.

Thiền sư Bạch-Ẩn đến tận nơi quan sát. Thấy cụ già đang ngồi có hơi nghiêng,
do tuổi tác chất chồng, nhưng gương mặt hồng hào . Gương mặt ông phảng
phất một niềm bình thản khinh an.

HOà-Thượng nói khẽ với người con, nhẹ như một hơi gió thoảng :

-Cha con đã nhập định .

Thưa chư liên-hữu, câu chuyện trên đây giúp cho chúng ta thấy mấy điểm:

1.
Tuy rằng cụ già niệm Phật mướn để lấy tiền. Và để tính số đếm ăn tiền,
cụ già đã dùng phương cách niệm Phật công cứ, mỗi ngày sổ ghi không gia
giảm.

2. Để được nhiều tiền, trừ ba bửa ăn, ông cụ ngồi ngay
ngắn trước bàn Phật để niệm Phật mướn. Đây có nghĩa là ông đã Phật Thất
mỗi ngày. Nhờ vậy mà ông đã được định. Thiền sư Bạch-Ẩn bảo với đứa con
"cha con đã nhập định". Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói niệm Phật lâu ngày
tâm thể được thanh tịnh . Như vậy ông cụ sẽ được chứng đắc. Chứng đắc
cái gì (?), chư vị đã đọc qua sách và kinh hẳn đều biết.

3. Sau đó người con thấy cha mình cơ hồ ngưng chuỗi. Trong pháp môn Niệm Phật
nói rằng: ông cụ đã niệm đến vô niệm, mắt ông khép nhẹ, hơi thở điều
hoà. Đây là chỗ, Đức Phật và Bồ-Tát Quán-Thế-Âm đã dạy trong Kinh Niệm
Phật Ba-La-Mật, hoặc 1 ngày hoặc 7 ngày sẽ chứng đắc những pháp quyết
định. Do đó gần đây chúng tôi khuyên chư vị, nếu muốn được Vãng Sanh nên
Phật Thất tối thiểu mỗi tuần 1 ngày.

Khi Thiền Sư Bạch-Ẩn nói với người con: "Cha con đã nhập định". Đó là trong niệm Phật có thiền
rồi, và một người niệm Phật lâu ngày được định như vậy khi lâm chung
chắc chắn sẽ Lưu-Xá-Lợi.

Phần sau sách này có chuyện của cụ bà
Diệu-Hỷ. Cụ bà niệm Phật ngày đêm; lúc đầu cụ cũng ghi số, nhưng lâu
ngày cụ nhập định bỏ cả số ghi. Sau lâm chung làm lễ Trà Tỳ, cụ bà
Diệu-Hỷ lưu nhiều Xá-Lợi.

Những ngày vừa qua nhiều vị đã được
xem video Phật Thất chùa Hoằng pháp tại Hóc Môn Việt-Nam và chuyện cụ bà
Triệu-Vinh-Phương niệm Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi. Đó là hai tài liệu
quý báu giúp cho người muốn được Vãng Sanh Cực-Lạc.

Chư vị chưa được xem nên tìm mượn cuốn video này. Nó hữu ích nhiều mặt. Ngoài việc
tự mình biết khi lâm chung nên niệm Phật như thế nào để giữ tâm không
điên đảo, giữ được mười niệm nối tiếp liền nhau như Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật Đức Phật đã nói, hầu chắc được Vãng Sanh.

Chư Liên-hữu cần cho cả nhà xem video ấy, để tất cả đều biết trợ niệm như
thế nào hầu khi trong gia-đình hữu sự, có người sắp lâm chung.

Từ lâu, nhiều người trong quan tâm đến sự trợ niệm, nhưng đó là việc làm
tối quan trọng, tối hữu ích, giúp cho một người chết tránh thoát khỏi
luân-hồi trong vô số kiếp.

Vãng Sanh Cực-Lạc Nhứt định không khó

Sau khi nghiền ngẫm Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật chúng tôi nhận thấy Vãng Sanh
Cực-Lạc thật sự không khó. Khó hay không là do quyết tâm của mình . Mình
không quyết tâm, không thực -hành niệm Phật, thì muốn Vãng Sanh cũng
không được chắc chắn; khi lâm chung sẽ theo nghiệp mà thọ sanh một cõi
nào đó.

Cư sĩ Chúc Lý ở Úc, đã một lần gặp được thần chết rồi
trở lại. Gặp lại vợ con bạn bè, ông hồi tưởng, giờ phút nghiêm trọng đó
ông không còn nhớ niệm Phật nữa. Quả thật là may! Nếu ngay lúc đó, hơi
thở của ông đứt, chắc ông phải tuỳ theo nghiệp mà thọ sanh rồi. Tự ông
biết rằng ông chưa tới được trình độ niệm Phật thành khối tịnh niệm
tương tục.

Cư sĩ đang chuẩn bị đầy đủ hành trang, quyết lần này
sẽ đi thẳng tới Cực-Lạc. Cư sĩ Chúc Lý biết rõ nếu một người nhứt tâm
niệm Phật, một ngày từ 10 ngàn đến 30 ngàn niệm, nhứt định sẽ Vãng Sanh
Cực -Lạc Thượng-Phẩm, từ Hạ sanh đến Thượng sanh. Và dựa theo Kinh Niệm
Phật Ba-La-Mật, phẩm thứ bảy, để nắm chắc phần Vãng Sanh Thượng-Phẩm
Thượng-Sanh, Cư sĩ Chúc Lý lập thêm lịch trình trì chú Vô-Lượng-Thọ
Như-Lai Chơn Ngôn như sau:

"Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có ban cho chúng sanh một chơn-ngôn gọi là
Vô-Lượng-Thọ Như-Lai Chơn-Ngôn. Đây là tạng pháp bí mật của Phật A-Di-Đà
ẩn chứa vô-biên thần-lực tự-tại bất tư nghì, diệt được tất cả tội
chướng. Nếu trì tụng đến 1 muôn biến (10.000 lần), sau khi chết được
sanh về Thượng-Phẩm Hoa-Sen (Sách Sưu Giải đánh máy sai là 100.000
biến).

Nếu trù chú mỗi ngày:

- 7 lần, thì 4 năm được 10.220 biến

- 14 lần, thì 2 năm được 10.220 biến

- 21 lần, thì 16 tháng được 10.080 biến

- 42 lần, thì 8 tháng được 10.080 biến

- 49 lần, thì 7 tháng được 10.290 biến

- 108 lần, thì 3 tháng 3 ngày được 10.044 biến

Chúng
tôi đã trì tụng thử, nếu trì chú vừa phải, mỗi phút có thể được 1 biến,
nếu trì chú nhanh thì 2 phút có thể được 3 biến. Như vậy trì chú vừa
phải, 1 giờ được 60 biến. Trì chú nhanh và rõ ràng một giờ được 90 biến.

Đây, Vô-Lượng-Thọ Như-Lai Thần-Chú:

Namo ratnatrayaya

Namo Arya, Amitábaya

Tat-thagatáya, Arahati.

Samyaksambuddhàya. Tadyatha!

Aum!Amirti. Amirto nabàvé.

Amirtá sambàvé, Amirta gabé,

Amirtá suddhé, Amirtá sité,

Amirtá vicalanté, Amirtá vicalantá gàmini.

Amirtá gàgana kiti cali,

Amirtá lodo visadhàhi (vần dhà đọc phà).

Sarvarithá sadhàni, Sarva macali

Saksá ỳucali. Svaha.

AUM BHRUM HÙM.

Trong lúc trì chú, bắt ấn "Vô-Lượng -thọ Liên-Hoa" Ấn và sau mỗi
biến nên đọc thêm 3 chữ Aum Brum Hùm, khiến cho công năng thần chú mau
kiến hiệu. Khi ngưng thì niệm AUM BRUM HÙM 21 biến.

Dưới đây là cách bắt ấn do Cư sĩ Chúc Lý dùng máy vi tính làm thành.

Theo chúng tôi, nếu chư Liên-hữu bắt ấn được thì tốt, bằng không được cũng chẳng sao vì chúng ta không phải là đệ tử Mật Tông.

Căn
bản vẫn là niệm Phật. Niệm Phật là chánh, thần chú Vô-Lượng-Thọ Như-Lai
là phần trợ, dùng để tiêu diệt các tội của người niệm Phật, hầu khi lâm
chung đắc được quả Thượng-Sanh ở Cực-Lạc.

Tóm lại, theo chúng tôi, nếu quyết định đắc quả Thượng-Phẩm Thượng-Sanh, nên nhất tâm niệm Phật không gián đoạn, không bê trễ.

Còn các bực kế, như Trung-Phẩm và Hạ-Phẩm, tuỳ theo sự niệm Phật của mỗi
chư vị. Điều quan trọng là nên luôn luôn nhớ câu Đức Phật dạy trong Kinh
Niệm Phật Ba-La-Mật:

"Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười
niệm nối tiếp liền nhau, lập tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của Đức A-Di-Đà
được Phật tiếp dẫn về Tịnh-độ Tây Phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác,
không còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả Bất-thối-chuyển. Từ ấy nhẩn
về sau, vượt qua Thập-địa, chứng Vô-Thượng-giác".

Và một câu tối quang trọng được Quán-Thế -Âm Đại Bồ-Tát dạy nơi Phẩm Thứ sáu của
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, mà chúng ta cần nằm lòng:

"Bất cứ chúng sanh nào nhứt tâm xưng niệm danh-hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, dẫu tới
tâm thái nào đi nữa, thuận ý hoặc nghịch ý, ham thích hoặc chống trái,
đều thâu hoạch vô số trí lực bất tư nghị".

Bởi danh hiệu Nam-mô
A-Di-Đà Phật có vô-lượng vô-số công-đức; vô-lượng vô-số diệu dụng;
vô-lượng vô-số oai thần, cho nên niệm Phật dầu với tâm thái nào cũng đạt
được mười một thứ trí lực. Mà khi đã thâu hoạch được, tức đắc được mười
một thứ trí lực, thì đã đắc được quả Vãng Sanh cao trội .

Còn khi chúng ta niệm Phật đến trình độ nhận được vô biên diệu dụng của hồng
danh Nam-mô A-Di-Đà Phật, thí dụ nghĩ đến Đức Phật A-Di-Đà thì Ngài
liền hiện ra; nghĩ đến Ngài Đại-Thế-Chí thì Ngài Đại-Thế-Chí hiện ra
v.v...Có vô số diệu dụng nhưng chúng tôi không nghĩ ra hết.

Đó là Ngài Quán-Thế-Âm nói, dù chúng ta niệm Phật với bất cứ tâm thái nào,
rồi cũng được vãng sanh. Nhưng căn bản vẫn là lúc lâm chung không điên
đảo và, vẫn giữ mười niệm nối tiếp liền nhau.

Từ Hạ Phẩm Hạ
Sanh, Trung Sanh hoặc Thượng Sanh thì những người này không biết niệm
Phật, nhưng được Thiện-Tri-Thức nói đầu đề 12 bộ kinh được trừ năm mười
ức kiếp tội lỗi trong đường sanh tử; hoặc được Thiện-Tri-Thức khen nói
mười lực và oai đức của Phật A-Di-Đà liền được trừ tội sống chết tám
mươi ức kiếp; hoặc được Thiện-Tri-Thức an ủi dạy tưởng Phật, tưởng không
được liền dạy niệm Phật, liền cố niệm đủ mười niệm A-Di-Đà Phật, mỗi
niệm được trừ tám mươi ức kiếp sanh tử. Cả ba hạng này đều được vãng
sanh.

Nhưng hạng đầu phải ở trong Hoa sen 10 tiểu kiếp tức Hạ
Phẩm Thượng Sanh; hạng thứ nhì Hạ Phẩm Trung Sanh ở trong Hoa sen sáu
kiếp; hạng thứ ba Hạ Phẩm Hạ Sanh ở trong Hoa sen Mười hai kiếp .

Chúng tôi đã trình bày ở chương 13, chư vị nào biết thân nhân mình kém khả
năng niệm Phật thì nên lo lắng trước, chuẩn bị chu đáo việc trợ niệm,
khi hữu sự liền đem ra ứng dụng. Như vậy sẽ giúp cho thân nhân mình được
Vãng Sanh một trong ba phẩm Hạ Sanh. Dù sao, thai sanh trong hoa sen
vẫn sung-sướng hơn là phải luân hồi lưu chuyển trong vô-lượng vô-số kiếp
vậy.

Nếu chư Liên-hữu hiểu nhớ điều này, đem thực-hiện cho thân-nhân chư vị khi lâm sự, thì sách này mới trở thành hữu-ích thật sự.








Được sửa bởi Admin ngày Sat Jun 04, 2011 8:38 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Admin

Admin


Nam Libra Rooster
Tổng số bài gửi : 4647
Points : 12281
Reputation : 0
Birthday : 19/10/1981
Join date : 23/08/2009
Age : 42
Đến từ : TÂN CHÂU
Job/hobbies : KỸ SƯ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitimeSat Jun 04, 2011 8:26 am

CHƯƠNG 15: TỔNG KẾT LUẬN VIẾT VỚI TÂM TRẠNG CỦA MỘT NGƯỜI NGỒI NGHE CÁI CHẾT ĐANG ĐẾN TỪ TỪ ....!
[size=14][color=#001500]Đây là tiểu tựa đặc biệt của chương nầy
"Viết với tâm trạng của một người ngồi nghe cái chết đang đến từ từ
....!" Ai rồi cũng chết . Có người chết được an vui, tự tại ra đi, được
chứng nghiệm chắc chắn đã Vãng Sanh về cõi Phật . Có những người chết
chẳng ai biết sẽ về đâu. Những người này chiếm đa số, cho nên Đức Phật
gọi những người này là đất trên quả địa cầu . Như chúng tôi vừa nói, ai
rồi cũng chết, nhưng chết đông như đất của quả địa cầu mà Đức Phật đã
nói, thật là đáng sợ, đáng thương!

Do đó, có rất nhiều người sợ chết, vì biết rằng ngay sau đó, không còn được hưởng thụ nữa, mà phải
bỏ lại vợ yêu quí, hoặc chồng, con cái và nhiều các thứ khác. Họ rất sợ
chết, nhưng không chịu tu theo đúng lời Phật dạy trong kinh, để thoát
khỏi luân hồi vượt ra khỏi Tam giới; chỉ thích tu theo phước đức nhơn
thiên, hoặc bị ảnh hưởng tà ma ngoại đạo.

Trong chương 7 trang 154, Hoà-Thượng Tịnh-Không kể lại cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Ma
Ba-Tuần. Ma nói với Đức Phật rằng: "Chờ đến khi ông vào thời Mạt pháp,
tôi sẽ bảo Ma con Ma cháu của tôi, tất cả đều xuất gia, đều khoát lên
cà-sa để phá hoại Phật pháp."

Chư vị nào đã đọc sách Tây-Phương
Du Ký, thuật chuyện Pháp Sư Khoan-Tịnh, được Quán-Thế-Âm Bồ-Tát hướng
dẫn viếng thế-giới Cực-Lạc, hẳn còn nhớ lúc Pháp Sư viếng "Trung-Thiên
La-Hán Đường", Pháp

Sư hỏi một vị Hoà-Thượng về tương lai của
Phật Giáo. Vị Hoà-Thượng viết tám chữ Phật Tự Tâm Tác, Giáo Do Ma Chủ.
Tám chữ này để ngang, hoặc đứng, ngang, trái, phải, trên, dưới gì, tách
ra đọc thành 36 câu, sẽ hiểu tình hình Phật Giáo 100 năm sau, có thể
thấu đước tiến trình Phật Giáo Thế-giới từ nay đến khi Phật pháp diệt
độ: 36 câu diễn dịch thành 840 câu.

Pháp Sư Khoan-Tịnh ráp được mấy câu:

Phật tự tâm tác, Giáo do ma chủ.

Phật Giáo tự chủ, Ma tâm do tác.

Tác tâm tự Phật, Chủ do ma giáo.

Sư Viên Quang, tức Bồ-Tát Quán-Thế-Âm, nói: "Thời cơ chín mùi mới được
công-bố", nhưng nghe qua chúng ta có thể hình dung "Ma Giáo chủ tác".

Cho nên, thời Mạt pháp này mà không tu theo Chánh Pháp cuối cùng của Phật, dễ bị ma hướng dẫn sai Chánh-pháp của Như-Lai.

Cái gì là Chánh-Pháp cuối cùng của Phật ?

Đó là Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật .

Chúng tôi viết sách này hoàn toàn dựa vào bốn kinh Tịnh-Độ, và các sách của chư Tổ, như Long Thọ
Bồ-Tát (Tổ thứ 14 của Thiền Tông), Giác-Minh Diệu-Hạnh Bồ-Tát,
Vĩnh-Minh Đại sư (Tổ thứ 6 Tịnh-Độ Tông), Chu Hoằng tức Vân Thế Đại sư
(Tổ thứ 8 Tịnh-Độ Tông), Trí-Húc tức Ngẩu Ích Đại sư (Tổ thứ 9 Tịnh-Độ
Tông), Thiệt Hiệp Đại sư (Tổ thứ 10 Tịnh-Độ Tông); Triệt ngộ Đại-Sư (Tổ
thứ 11 Tịnh-Độ Tông); Ấn-Quang Đại sư (Tổ thứ 13 Tịnh-Độ Tông),
Hoà-Thượng Thích-Thiền-Tâm (Dòng Pháp Liên-Hoa Việt-Nam), Hòa-Thượng
Thích-Đức-Niệm (Phật Học Viện Quốc-Tế Hoà-Kỳ), Hoà-Thượng Tịnh-Không
(Phật Giáo Trung-Hoa cận đại). Chúng tôi chỉ là kẻ cóp nhặt mà thôi.

Sau khi học biết chút ít Phật pháp, bắt chước theo người Tây Tạng, chúng tôi học chết và đối diện với cái chết.

Đến nay, sau khi viết xong các chuyện của các vị Vãng Sanh Lưu Xá -Lợi, đa
số là người lớn tuổi lại bịnh hoạn và bịnh nặng . Chư vị ấy thản nhiên
ngồi hoặc nằm niệm Phật không còn nghĩ đến sự đau đớn . Chư vị ấy thản
nhiên ngồi nghe cái chết đang từ từ đến, lòng không chút sợ hãi, tâm
không một chút tham luyến sự sống . Chúng tôi cũng học chết, để biết rõ:
"Khi sắp chết, chuyện gì sẽ xảy đến cho một người đang hấp hối ?"

Đa số chúng sanh rất sợ chết, cho nên đa số đều sống mặc kệ ngày mai, tới
đâu thì tới, không dám đối diện với sự thật . Vì sợ sự thật mà không dám
tìm hiểu, không dám đối diện. Nhiều người không dám đối diện vớ sự
thật, nên nghe ai đó khoe đắc quả có thần thông, truyền tâm ấn cho, khỏi
tu cũng sẽ đắc quả ngay. Hoặc có người nói, chẳng cần phải lo tu niệm
gì cả, hãy trở về sống với tự tâm mình là đủ. Vậy, tự tâm tức là Phật
tánh, là ông Phật của mình. Kinh Đại Bát Niết-Bàn nói, bực Đại Bồ-Tát
mới thấy được Phật-Tánh. Cho nên theo chúng tôi: "Người bảo hãy trở về
với tự tâm nói không sai với lời Phật dạy; nhưng nếu chỉ nói suông vài
lời, mà không giảng minh tường-tận, không chứng minh tu cách nào mới trở
về được với tự tâm, và phải tu bao nhiêu kiếp mới thấy được tự tâm hay
Phật Tánh (?), thì đúng là: Y Kinh giảng nghĩa oan cho ba đời chư Phật".

Bởi Đực Phật Thích-Ca không tu dễ như vậy!

Bởi vì, người nghe giảng, chẳng rõ tự tâm là gì, hoặc dù có hiểu trên văn
tự, nhưng chẳng biết tu cách nào trở lại được với tự tâm. Tới chừng lâm
chung, chẳng thấy tự tâm, tức ông Phật của mình; mà chỉ thấy oan-gia
trái chủ, oan hồn hiện ra trước mắt. Lúc ấy quá cận kề, nhiều người muốn
niệm Phật chẳng biết niệm cách nào, đành phó thác may rủi tuỳ theo cận
tử nghiệp của mình mà luân hồi trong các nẻo qua vô số kiếp.

Người đánh máy sách này là cháu Nguyễn-Hương. Hôm rồi, cháu thuật chuyện cho
chúng tôi nghe về một người đồng nghiệp của chồng cháu đang bịnh nặng
nằm nhà thương. Người bịnh này nhiều lần thấy oan gia trái chủ, tức hồn
ma, hiện ra. Chúng tôi muốn tận tai của mình được nghe người bịnh kể,
nên chúng tôi đích thân vào nhà thương. Cuối cùng chúng tôi phải tặng
cho người bịnh một máy chíp niệm Phật, để đánh tan oan gia trái chủ,
không cho hiện ra phá người bịnh .

Sau đó, chúng tôi đem chuyện này kể cho một người bạn nghe. Anh bạn này thú thật với chúng tôi,
chính mẹ ruột của anh lúc sắp mất cũng thấy các oan hồn xuất hiện .

Chư Liên-hữu nào đã xem video "Hoa Nở Thấy Phật" hẳn nghe con trai của cụ Triệu-Vĩnh-Phương hỏi:

-Mẹ nói mẹ chết sẽ về cõi Cực-Lạc, nhưng oan gia trái chủ sẽ níu kéo chân mẹ .

Bà cụ đáp:

- Có Phật A-Di-Đà lo gì !

Đó là nhờ cụ Triệu-Vĩnh-Phương đã niệm Phật nhiều năm.

Tội nghiệp cho người thời Mạt pháp này. Vì không nghiên cứu kinh Phật để
hiểu rõ tận tường tất cả các kinh, tưởng mình đang tu theo đạo Phật,
nhưng sự thật bị người hướng dẫn sai giáo lý của Đức Phật dạy.

Đức Phật dạy chúng ta sống với tự tâm, với Phật-Tánh của mình. Nhưng Phật
tánh của chúng sanh đã bị vô minh che mất từ lâu, từ vô số kiếp. Muốn
thấy được Phật Tánh phải tu qua ba Đại a-tăng kỳ kiếp, đắc được quả Đại
Bồ-Tát thì mới thấy được Phật Tánh, thành Phật.

Từ Điển Phật Học Hán-Việt nói: "Một A-Tăng-Kỳ là vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn (7 chữ
vạn) triệu năm, hay nói rõ hơn thì, một A-Tăng-Kỳ khi viết ra, có một số
1 đứng đầu và sau đó có 47 con số không".

Chúng ta hãy suy-nghĩ, nếu tu thành Phật dễ dàng thì, tại sao sau khi Phật Thích-Ca
nhập Niết-Bàn đến nay chưa thấy ông Phật nào khác ra đời, mà phải chờ
đến 56 ức 7.000 năm ? Lúc đó Phật Di-Lắc mới ra đời. Hiện nay, Ngài đang
trụ nơi cõi Trời Đâu-Suất .

Từ Điển Phật Học Hán -Việt nói:
Phật Thích -Ca thụ ký rằng khi Di-Lặc Bồ -Tát thọ 4.000 tuổi (khoảng 56
ức 7.000 năm của cõi nhân gian) thì sẽ hạ sanh xuống cõi nhân gian và sẽ
thành Phật dưới gốc cây Long Hoa.

Nói một cách khác, khi Chánh-pháp của Đức Phật Thích-Ca diệt độ, thì Phật Di-Lặc mới ra đời .

Bất cứ ai nói khác với những lời kinh trên đây, bảo rằng tu trở về với tự
tâm thì sẽ thành Phật không cần trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đó là
dối gạt thế -gian, đưa chúng sanh vào con đường ma.

Tại sao dám nói "đưa chúng sanh vào con đường ma?"

Bởi vì thời này, ít có người sống hơn trăm tuổi, nếu không tu đúng
kinh-điển, đúng Chánh-pháp, thì khi lâm chung phải theo nghiệp mà thọ
sanh.

Nếu là người tu đúng theo kinh Phật dạy cho thời Mạt pháp
này, tu niệm Phật, dựa vào danh-hiệu Phật, dựa vào thần lực của Phật để
trấn át oan gia trái chủ, trấn át quyến thuộc của Ma, thì sẽ thoát khỏi
ba đường dữ.

Đa số người thời này, lúc hấp hối đều thấy oan
hồn hiện đến như trên đã nói. Nếu người tu theo Phật, lúc hấp hối biết
niệm Phật thì, chắc chắn sẽ được Phật và Thánh Chúng đến rước .

Như chúng tôi đã nói, cõi Ta bà này là cõi do Ma Vương thống trị. Cõi này
chỉ có một vị Phật, tất cả chúng sanh muốn đắc quả Phật phải tu Bồ-Tát
đạo trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới có thể thành Phật.

Nếu khi chết, trừ người tu niệm Phật Vãng Sanh được lập tức về cõi Phật
A-Di-Đà, tức cõi Cực-Lạc, tất cả đều phải luân-hồi trong sáu nẻo. Người
tu Bồ-Tát hạnh, hoặc người tu Thập Thiện mà suốt đời giữ đúng mười điều
thiện thì hy vọng được lên cõi Trời. Nhưng vẫn không ra khỏi Tam-giới.
Mà Phật dạy, tu Phật phải ra khỏi tam-giới. Không ra khỏi tam-giới là
còn phải luân-hồi.

Đức Phật đã nói rõ trong kinh Thủ -Lăng-Nghiêm và Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật rằng: "Tu các môn khác không thể chứng đắc".

Trong sách Niệm Phật Thập Yếu, Hoà-Thượng Thiền Tâm viết: "Như lời Phật huyền
ký: "Đời Mạt pháp người tu thì nhiều, nhưng khó có ai đắc đạo". Mà khi
chưa chứng đạo, nếu còn nghiệp lực nhỏ như sợi tơ cũng bị luân hồi".
(trang 61, sách Niệm Phật Thập Yếu)

Vậy đời này có thầy nào chứng đạo ?

Như đã nói, nghiệp dữ của chúng sanh nếu có hình tướng thì đã chất đầy cả
hư không; ở trên Hoà-Thượng Thiền Tâm nói dù nghiệp lực còn nhỏ như sợi
tơ cũng bị luân hồi. Đó là Hoà-Thượng đưa ra thí dụ, dù với nghiệp lực
nhỏ nhứt thôi, chứ thật sự thì nghiệp của chúng sanh vô số kể.

Có người nói, nếu kiếp này tôi tu chưa chứng đạo; kiếp sau tôi tu tiếp. Hoà-Thượng Thích-Thiền-Tâm nói:

"Bởi khi chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sanh tất phải hôn mê, dễ quên tâm
nguyện tu hành kiếp trước. Nơi trần cảnh duyên tiến đạo thì ít, duyên
thối đạo thì nhiều. Biết bao vị xuất gia lúc chuyển sanh không thể tiến,
như sự tích đã lược trần trong chương nhứt". (Niệm Phật Thập Yếu, trang
59).

Nhiều chúng sanh đang cần thầy dẫn đường, nhưng thầy chưa rành đường, thì dẫn chúng sanh đi về đâu ? cõi Phật nào ?

Mỗi Đức Phật đều có hạnh nguyện của mình. Muốn đến cõi Phật nào cũng đều
phải có lời nguyện. Phật cõi này tức Phật Thích-Ca đã nhập Niết-Bàn.
Trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã huyền ký, thời Mạt Pháp này, không
thể tu chứng các môn khác, trừ Pháp môn Niệm Phật. Chư Liên-hữu là bậc
cha mẹ trong một gia-đình, nếu khi cha mẹ sắp mất trối trăn lại, mà con
cái không nghe lời, thì sao ?

Có người nói rằng tôi tu Thiền sẽ thành Phật! Chúng tôi đã chứng minh, Đức Phật Thích-Ca, Đức Phật
A-Di-Đà đã tu từ thời Đức Phật Đại-Thông Trí-Thắng cho đến khi thành
Phật đã trải qua vô số kiếp.

Và để chứng minh một việc khác .

Ngài Mục Kiền-Liên, mà ai cũng biết, là một đại đệ tử Phật, có nhiều thần
thông nhứt. Khi nghe Đức Phật giảng về cõi Cực -Lạc, Ngài ỷ mình có thần
thông, tự mình đi tìm. Nhưng không thể tới được cõi Cực -Lạc.

Tại sao ?

Muốn đến được cõi Cực-Lạc phải có Tín-Hạnh-Nguyện. Phải có niềm tin vào 48
đại-nguyện của Đức Phật A-Di-Đà. Phải có hạnh niệm Phật và phải phát
nguyện Vãng Sanh. Tu hành đúng lời dạy của Phật, khi lâm chung không cần
thần thông, chỉ cần 10 niệm nối tiếp liền nhau, liền được Phật và Thánh
Chúng tiếp dẫn .

Ngài Mục Kiền-Liên, có nhiều thần thông lại
là một vị Bồ-Tát thị hiện làm Thanh Văn. Lúc Ngài đang nghe Đức Phật
giảng kinh A-Di-Đà, liền thử dùng thần thông của mình để đi tìm cõi
Cực-Lạc. Bởi lòng tin chưa vững, muốn thử đi tìm, lại thiếu hạnh niệm
Phật và chưa từng phát-nguyện Vãng Sanh, nên tìm không thấy. Sau cùng
Ngài Mục Kiền-Liên bay lạc đến cõi Phật Tu-Di-Tướng.

Phật Tu-Di-Tướng là ai ?

Phật Tu-Di-Tướng cùng Phật Thích-Ca và Phật A-Di-Đà và 13 vị Phật
khác là con của Đức Phật Đại-Thông Trí-Thắng, được gọi là 16 vị Sa-di
Bồ-Tát.

Núi Tu-Di cao tám muôn bốn ngàn do tuần, mỗi do-tuần
trung bình sáu mươi dặm. Phật Tu-Di-Tướng ở cõi ấy. Dân chúng ở cõi nầy
thân hình đều to lớn như núi Tu-Di. Ngài Mục Kiền-Liên đến cõi này lúc
Phật Tu-Di-Tướng đang thuyết pháp. Ngài Mục Kiền-Liên đáp xuống miệng
bát của một vị Tăng. Vị Tăng liền bạch với Phật Tu-Di-Tướng.

- Có một con trùng nhỏ giống như hình người đang bò trên miệng bát của con.

Phật Tu-Di-Tướng bảo:

-Không phải thế đâu, đó là vị Thăng-Văn đệ-tử thần-thông bật nhứt của Phật
Thích-Ca Mâu-Ni ở thế-giới Ta bà, tên gọi Mục-Kiền-Liên.

Ngài Mục Kiền-Liên nghe nói thế, liền hiện thân lớn bằng núi Tu-Di, đồng với
thân lượng chúng sanh ở cõi ấy, bạch với Phật nguyên nhân mình đi lạc
đến thế giới này và kính xin Phật dùng thần-lực đưa trở lại Quốc-độ Ta
bà (Niệm Phật Thập Yếu, trang 69).

Câu chuyện trên đây cho chúng ta hiểu thêm:

1.
Ngài Mục Kiền-Liên là đại đệ-tử Phật đã chứng quả A-La-Hán, có thần
thông đệ-nhứt muốn tự mình đến cõi Cực-Lạc cũng không thể đến được, bởi
lẽ Ngài thiếu Tín-Hạnh-Nguyện.

2. Cõi Phật Tu-Di-Tướng gần cõi
Ta bà này. Ngài tuy đến được cõi ấy, nhưng vì thiếu thệ nguyện nên đến
nơi như kẻ xâm nhập bất-hợp-pháp, chưa dám hiện nguyên hình tướng.

Chúng tôi đơn cử trường hợp của Ngài Mục Kiền-Liên để được trình -bày trường hợp của các chúng-sanh thời Mạt-pháp này:

Đức Phật Thích-Ca dạy rất nhiều Pháp môn, đại khái các pháp môn dựa vào các
kinh như Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa, Đại Bát Niết-Bàn, đây thuộc về
Thiền-định Đại-Thừa.

Ngoài ra còn có Thiền-định Tiểu-Thừa và Thiền-định của Thiền tông (giáo ngoại biệt truyền).

Theo các tài-liệu mà chúng tôi đã trình bày trong sách này, từ vài trăm năm
trở lại đây không pháp môn nào có người tu chứng. Chứng minh những điều
Đức Phật dạy trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Niệm Phật Ba-La-Mật thật rõ
ràng.

Hãy đơn cử từng nhân vật của các vị lãnh đạo cuối cùng của từng môn phái để rõ:

1.
Tông Thiên Thai tu theo Kinh Pháp-Hoa có vị Tổ cuối cùng là Đàm Hư Pháp
Sư. Ngài đã xác nhận với Tịnh-Không Pháp sư là thời này không còn có
người tu chứng đắc, nhập định lâu dài. Chữ chứng dắc này không hàm ý đắc
được quả Bồ-Tát hay Phật. Sau cùng Đàm Hư Pháp sư quy hướng Tịnh-Độ và
được Vãng Sanh Tây-Phương Cực-Lạc.

2. Kinh Hoa-Nghiêm. Vị Tổ cuối cùng là Đại Lão Hoà-Thượng Thích-Thọ-Trị. Ngài lấy máu mình để viết
bộ Đại Hoa-Nghiêm và dùng mực chép 14 quyển Kinh Hoa-Nghiêm khác. Ngài
dùng suốt đời mình để tu theo Hoa-Nghiêm, nhưng cuối cùng Ngài khuyên đệ
tử hãy quy hướng Tịnh-Độ, để niệm Phật Vãng Sanh Cực-Lạc (xin xem phần
phụ đính).

3. Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đạo Trân Pháp Sư chuyên giảng Kinh Niết Bàn. Một hôm, nhơn khi Thiền-định, Ngài thấy trên biển
có vài trăm người đang ngồi thuyền báu đi ngang qua. Ngài hỏi:

- Đi đâu đó vậy ?

Trên thuyền đáp:

- Chúng tôi về Cực-Lạc!

Ngài yêu cầu cho quá giang, trên thuyền đáp lại:

-
Pháp Sư tuy giảng Kinh Niết Bàn rất hay, công đức rất lớn. Nhưng Ngài
chưa tụng Kinh A-Di-Đà, chưa phát nguyện Vãng Sanh Cực-Lạc, thì đâu được
cùng với chúng tôi về Cực-Lạc.

Từ đó Pháp sư ngưng giảng Kinh Niết Bàn, chuyên tâm niệm Phật, tụng kinh A-Di-Đà và phát nguyện Vãng
Sanh Cực-Lạc. Ngài được Vãng Sanh (Kinh A-Di-Đà Sớ Sao trang 93).

4.
Tiểu-Thừa và Thiền-Tông. Vài trăm năm gần đây không có người tu chứng
đắc. Thiền-Tông tuy thuộc Đại Thừa, nhưng theo Hoà-Thượng Tịnh-Không
nói, thời mạt pháp không có người của Thiền-Tông chứng đắc thiền định.
Tu Đại Thừa là phải tu vượt khỏi Tam-giới, nhưng mấy năm gần đây không
người chứng được quả Tứ Thiền và Bát Định, như vậy chỉ mới lên được các
cõi Trời. Còn các thiền sư Việt-Nam chúng ta trong vòng 50 năm trở lại
đây không hề được nghe tin có vị nào nhập-định được vài ngày. Vậy khi
lâm chung, chư vị ấy sẽ lên đến cõi nào ?

Chư Liên-hữu nào đã đọc cuốn Tây-Phương Du Ký, hẳn nhớ, khi Pháp sư Khoan-Tịnh đến một cõi
Trời, ghé vào một nơi có chữ Trung Thiên La-Hán. Theo Pháp Sư, đây là
cảnh giới đạt được của các vị La-Hán. Nhưng người Pháp Sư gặp, họp nhau
từng nhóm vui chơi. Có nhóm ngồi Thiền, có nhóm đánh cờ, có nhóm ca vang
múa hát. Tất cả đều lộ vẻ vui mừng, nhưng mãi mê việc vui chơi, mà
không hề nói lời nào.

Khi Pháp Sư Khoan-Tịnh lên đến Trời Đâu-Suất gặp được Hư-Vân Lão Hoà-Thượng và Phước-Vinh Đại -Sư.
Phước-Vinh Đại-Sư nói về Pháp Sư:

- Người ở thượng giới ham vui
chẳng chịu tu hành, cũng như y như người giàu ở thế gian vậy ... chẳng
hề biết là chưa ra khỏi tam-giới, chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi".

Cõi Trung Thiên La-Hán là nơi các vị tu Thập thiện và tu Thiền ở thế-gian
lên đến sau khi lâm chung. Trời Đâu-Suất là nơi các bậc tu hành
nghiêm-cẩn trụ đến, chờ Di-Lặc Bồ-Tát giáng sanh cõi Ta bà.

Dựa vào lời Phước-Vinh Đại-Sư chúng ta biết thêm một việc, như kinh thường
nói, nếu còn luân hồi trong các nẻo, dù lên cõi Trời, khi hết phước cũng
bị đoạ vào đường dữ . Vì như, trước đây chúng tôi đã thuật lại lời của
Trí-Húc Đại-Sư: "Nghiệp ác của chúng sanh nếu có hình thể, thì các
nghiệp ác ấy đã chất đầy cả hư không"! Hầu hết những vị sanh lên cõi
Trời đều lo ham vui hưởng phước, chơi vui ngày đêm. Phước nào hưởng rồi
cũng hết. Khi mà phước Trời đã hết, thì chỉ còn nghiệp ác. Do đó, khi
sắp chết, năm tướng xuất hiện (xem sách Sưu Giải trang 557) đang từ cõi
Trời liền đoạ vào Địa Ngục. Cho nên kinh dạy, tu Phật phải tu ra khỏi
Tam-giới.

Đức Phật dạy: "Thời Mạt pháp này chỉ có Pháp môn Niệm
Phật mới có thể ra khỏi Tam-giới, nhờ Niệm Phật nương vào danh-hiệu
Phật mà Vãng Sanh Cực-Lạc ".

Chỉ có Vãng Sanh Cực -Lạc mới ra
được khỏi tam-giới . Nói tóm lại, còn ở trong tam-giới là còn luân hồi,
là còn đoạ vào ba đường dữ .

Chúng tôi viết sách này và đặc biệt chương này, muốn bày tỏ hoài bảo của mình, muốn tất cả chúng sanh
thời Mạt pháp này đều thoát khỏi luân hồi sanh tử .

Chúng tôi muốn mỗi một dòng chữ, mỗi một trang giấy đều là một lời tha thiết, đều là một điều cầu xin!

Cầu xin ai ? Cầu xin điều gì ?

Chúng tôi cầu xin chư Phật, Bồ-Tát, gia hộ cho tất cả chúng sanh biết xưng
niệm danh-hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật đều thoát khỏi luân-hồi sanh-tử.

Cầu xin tất-cả chư vị xuất gia lẫn tại gia.

Tại sao cầu xin chư vị xuất gia?

Chư vị xuất-gia là đại-diện của Phật, là sứ giả của Như-Lai. Trong
quá khứ vô-lượng vô-biên na-do-tha vi-trần kiếp, chư Phật vì thương-xót
chúng sanh mà xả bỏ đầu, mắt, tay, chân, thân mạng, tài sản, quyến
thuộc ... để tìm cầu Chánh-pháp, tu Bồ-Tát-đạo, giáo-hoá muôn loài, làm
cho ai nấy đều lợi ích ....

Nhưng chư Phật muốn tế-độ tất cả
chúng sanh, thì cũng phải lấy Chánh-pháp làm phương-thuốc hữu-hiệu trị
dứt chứng bịnh tham ái, dừng Chánh-pháp làm thuyền bè đưa chúng sanh qua
đến bờ giác ngộ, dùng Chánh-pháp làm tuệ kiếm chặt đứt mọi trăng trói
phiền não, làm ngọn đuốc dẫn dắt ra khỏi đêm dài vô-minh...

Người
niệm Phật phải biết cảm mộ ân đức cao dày của Chánh -pháp phải luôn
luôn báo đáp ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh-điển Đại -Thừa và giảng
nói cho kẻ khác ... khiến sao cho Chánh-pháp được lưu-hành rộng khắp
nhân-gian, ai nấy đều được hưởng dụng cam lồ vị.

Lời Kinh đã nói rõ như vậy. Nên chúng tôi cầu xin chư vị xuất-gia hãy gia tâm
nghiêm-cứu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, hầu đem Chánh-pháp cuối cùng của
Đức Bổn-Sư giảng giải và lưu-hành rộng khắp nhân gian, khiến ai nấy đều
được hưởng dụng cam lồ vị.

Cam-lồ vị mà Đức Phật nói, ấy là quả vị Vãng Sanh Cực-Lạc. Đây là lời cầu xin đối với chư Tăng Ni tu Tịnh-Độ.

Còn đối với chư Tăng Ni tu Thiền, chúng tôi thành thật xin rằng: "Chúng
sanh thời Mạt pháp không có khả năng tu Thiền . Chư vị đã phát tâm xuất
-gia và chọn cho mình môn tu, thì khi lâm chung, thần thức chư vị đi về
đâu, thì đó là kết quả chọn lọc của chư vị . Còn chúng sanh Phật tử,
thật sự phải nghe theo lời Đức Bổn -Sư dạy như sau:

"Đây là pháp môn vi-diệu thù thắng đệ nhứt ."

Đây là môn tu Đại oai lực, Đại phước đức mà chư Phật giúp chúng sanh vượt
thắng thân phàm phu, mà thâm nhập cảnh giới Chơn-thường .

Đây là môn tu Đại bát-nhã, Đại thiền-định, mà chư Phật dùng làm thuyền bè
đưa hết thảy chúng sanh qua thấu bờ bên kia, không còn sanh già bịnh
chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp lạc.

Đây là môn tu Đại trang-nghiêm, Đại thanh-tịnh, mà chư Phật dùng để đưa hết thảy chúng
sanh vào giới luật, nhiếp chúng sanh vào oai nghi, an ổn khoái lạc .

Đây là môn tu Đại nhu-hoà, Đại nhẫn-nhục, mà chư Phật giúp hết thảy chúng
sanh tự tại giữa khổ và vô thường, mà thành tựu Tri Kiến Phật.

Đây là môn tu Đại Bồ-đề, Đại siêu-việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để
giúp hết thảy chúng sanh thành Phật, như Phật ngay trong một kiếp .

Đây là môn tu Đại từ-bi, Đại dũng-mãnh, mà chư Phật dùng để giúp chúng sanh
có được cái tâm bằng tâm chư Phật, có được cái nguyện bằng nguyện chư
Phật, mau chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng Pháp thân từng phần
.

Lại nữa trong quá khứ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ kiếp, nhẫn
lại đến nay, chư Phật cũng chỉ dùng một pháp Niệm Phật này để độ khắp
chúng sanh. Trong hiện tại cũng có vô-lượng vô-biên hằng hà sa chư Phật ở
mười phương cũng đang thuyết giảng giáo nghĩa Niệm Phật nầy để rộng cứu
với chúng sanh.

Trong đời vị lại, tất cả chư Phật nếu muốn cứu
vớt hết mọi chúng sanh, thì phải do nơi pháp Niệm Phật này. Do đó mà
Như-Lai bảo rằng Niệm Phật là Vua của tất cả các Pháp.

Không riêng gì Đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu Ni, chư Phật đều thương xót chúng sanh
thời Mạt Pháp này, nên hể mỗi lần Đức Thích-Ca giảng nói về pháp môn
Niệm Phật thì mười phương chư Phật đều đồng thanh tán thán và nói:

"Ai nhứt tâm xưng niệm danh-hiệu ấy sẽ được chư Phật hộ trì và nhiếp thọ, quyết định thành Phật".

Chúng tôi nghĩ rằng Chư Tăng Ni Thiền-Tông ít nghiêm cứu Kinh Tịnh-Độ, nên
không hiểu về những lời đồng thanh trên đây của chư Phật; chứ thật sự
chư vị ấy không ai chống đối, để mang tội huỷ báng Chánh-pháp.

Trong tiền thân của Đức Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, có lần huỷ báng Chánh-pháp mà
đoạ Địa-ngục vô số kiếp. Cho nên không thể nói, tôi là người xuất gia
muốn giảng Pháp sao cũng được.Dù vô tình, nhưng quả Địa ngục vẫn đón
chờ.

Điều chúng toi xin với chư vị xuất gia tu theo Thiền-Tông
là, đời sống thế-gian nầy rất ngắn ngủi. Dân tộc Việt-Nam đã chịu rất
nhiều khổ đau do chiến-tranh. Nhiều người gần suốt cuộc đời gian-nan vì
cuộc sống, vì bị giam cầm hay bị chia lìa người thân, thời gian tu tập
chẳng được bao nhiêu. Bây giờ hết chiến -tranh, nhiều người trong hạng
tuổi phải tu hành để khi lâm chung khỏi phải luân hồi sanh tử, không còn
năm tháng để tu Thiền-định. Giả sử tu Thiền-định để được chứng một quả
nào đó để thoát khỏi tam-giới, cũng không còn đủ thời gian đối với họ.
Như vậy, nếu khi họ chết mà chưa chứng đắc quả gì đó, thì chắc chắn họ
sẽ theo nghiệp mà thọ sanh trong các nẻo luân hồi. (xin xem Phụ Đính về
"Những Chuyện Luân Hồi Xưa và Nay").

Chư vị là bậc xuất-gia, hẳn đều hiểu, một người trong cuộc sống hằng ngày, nếu có giết chúng
sanh để ăn, có giết người vì nghĩa vụ công-dân, vẫn là sát sanh. Là
người xuất-gia chư vị đều hiểu, luật nhân quả không có sự riêng rẻ đặc
biệt cho một ai.

Nếu là người xuất-gia, tu Đại-Thừa, đều có tâm Bồ-Tát thương tất cả chúng sanh. Xin chư vị hãy thương tất cả chúng
sanh. Xin đừng nghĩ riêng cho mình, mà hãy tâm niệm vì tất cả chúng sanh
Phật tử đang cần cứu độ. Họ đang cần chư Tăng Ni Thiền-Tông nghiên-cứu
con đường tu cho chúng sanh của thời Mạt -pháp, hầu chỉ cho họ đi đúng
đường được giải-thoát. Như Tỳ Kheo Thích-Thông-Hoàn ở Melbourne, Úc
Châu. Thầy tu Thiền, nhưng khi Phật tử hữu sự, Thầy đích thân đến nhà
tụng niệm hướng dẫn người hấp hối Vãng Sanh Cực-Lạc.

Đây đúng là một Thiền-Sư có tâm Đại-Thừa Bồ-Tát, vì chúng sanh, chứ không vì sự chấp trước tông phái.

Như trong sách này, chúng tôi trưng bày có sự bày chống Pháp môn Tịnh-Độ,
một Pháp môn do chính Kim-Khẩu Đức Bổn-Sư-Thích-Ca Mâu Ni giảng dạy. Trừ
các bổn kinh Tịnh-Độ trong các bộ kinh lớn như Pháp-Hoa, Hoa-Nghiêm,
Thủ-Lăng-Nghiêm, Đại Bát Niết-Bàn, cuối cùng Đức Bổn Sư đều nói đến
Thế-giới Cực-Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Các đại Kinh mà chúng tôi vừa kể
trên đều là kinh dạy tu Bồ-Tát hạnh, nếu ai áp dụng đúng và phải trải
qua vô-kiếp thì sẽ thành tựu viên-mãn, còn không tu theo nổi thì cuối
kinh, Đức Bổn-Sư dạy nên tu cầu Vãng Sanh Cực-Lạc. Xin chư vị, lật lại
các kinh mà chúng tôi nói để thấy rõ sự ngụ ý của Đức Bổn-Sư. Ngài
thương chúng sanh không thể tưởng được.

Xin chư Tăng Ni đừng cô
phụ lòng thương bao la của Đức Bổn -Sư, đừng cô phụ lòng ưu ái của vô
số Phật tử từ nhiều năm qua đã không ngừng cúng dường chư vị . Xin hãy
chỉ cho những Phật tử đệ tử của chư vị con đường tu.

Khi ngồi viết sách này với tâm-trạng một người đang ngồi nghe và tưởng chừng cái
chết đang đến với mình; chúng tôi nghĩ rằng, như lời Đức Bổn-Sư dạy:
"Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm nối tiếp liền nhau, lập tức
vào Phổ đẳng Tam-muội của Đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tây-Phương
Tịnh-Độ". Thật là một Pháp môn không đòi hỏi tu trì khó khăn; chỉ cần
nương vào thần lực Phật, mà khỏi luân hồi trong hàng triệu tỷ năm, tại
sao các vị tu Thiền lại chấp tu như vậy là thiếu tự lực, khiến bao nhiêu
chúng sanh phải luân hồi đau khổ ?

Tự lực để làm gì ? Tự lực có thêm được hãnh diện gì ?

Sở dĩ chúng tôi không tranh cãi về chữ "tự lực" vì đứa em trai chúng tôi,
ký-giả Trọng-Viễn đâu hề có sự tự lực niệm Phật. Khi lâm chung được sự
trợ niệm đầy đủ, theo sách Liễu-Sanh Thoát-Tử, rờ đỉnh đầu, sau 8 tiếng
đồng-hồ, vẫn còn nóng; đó là triệu chứng Vãng Sanh.

Thật sự,
nếu nói tự lực thì, muốn khi lâm chung được phẩm vị cao, người tu niệm
Phật phải niệm Phật suốt ngày đêm. Người thiếu tự lực không làm nổi .

Chúng tôi quả quyết, một hành giả mỗi ngày tu niệm 10.000 danh-hiệu Nam-Mô
A-Di-Đà Phật, trong vòng 2 năm khi lâm chung, chắc chắn Vãng Sanh từ
Trung Phẩm trở lên. Đây chẳng phải là tự lực ư ?

Tự lực chỉ là một danh tự .

Nếu tự lực mà thật sự có thể đắc quả Thiền, thành Bồ-Tát, thành Phật được,
cũng nên khuyến khích mọi người tu theo. Nhưng, từ sau ngày Tổ Bồ-Đề
Đạt-Ma tịch diệt, ngoài những người xuất-gia tu Thiền, được mệnh danh là
Thiền-Sư, thử hỏi có sách sử nào kể lại trong hàng chúng sanh Phật tử
có vị nào đắc quả ?


Xin chư vị hãy nói thật với lương tâm chư vị, chúng sanh Phật tử tu Thiền sẽ
ra sao sau khi chết ? Thần-thức của họ sẽ đi về đâu ?


Ai có thể trả lời một cách chính xác câu hỏi này ?

Nhưng kinh Phật nói rõ về người niệm Phật hiệu Di Đà !

Theo Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, một người không biết niệm Phật và trong cuộc
đời từng làm nhiều điều ác, khi lâm chung lửa địa-ngục hiện đến. Đáng lý
người này phải rơi vào địa-ngục ngay. May thay! lúc ấy có một
Thiện-Tri-Thức hiện diện (không nhứt thiết là người Xuất-gia hay tại
gia), người này hiểu đạo khai thị nói về pháp mầu của Phật và dạy tưởng
Phật, người sắp chết quằn quại tưởng niệm không nổi. Thiện-Tri-Thức lại
bảo: "Nếu tưởng niệm không được, thì nên xưng danh-hiệu. Người sắp chết
hết lòng niệm chẳng dứt tiếng đủ mười niệm "Nam-Mô A-Di-Đà Phật".

Nhờ xưng danh-hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tội sảnh tử tám mươi ức kiệp
khi vừa tắt hơi thấy hoa sen vàng như vừng mặt trời ở trước người ấy,
trong khoảng phút chốc liền được Vãng Sanh Thế-giới Cực-Lạc .

Kính thưa chư vị Xuất-gia tu Thiền,

Chỉ vì chư vị cho rằng mình tu theo giáo ngoại biệt truyền, không quan tâm
nghiên-cứu Kinh-điển, ít hiểu về Pháp môn Niệm Phật, nên không hiểu chỗ
mầu-nhiệm của danh-hiệu Phật A-Di-Đà, sự huyền diệu của tha lực Phật .

Nếu
quả chư vị muốn thử đem cuộc đời chư vị làm một cuộc "thí-nghiệm" rằng:
"Không cần dựa vào tha lực của Đức Phật A-Di-Đà chư vị vẫn có thể đắc
quả Phật", đó là cái quyền của chư vị.

Nhưng, chúng tôi tha thiết cầu xin chư vị hãy đọc theo Đại Lão Hoà-Thượng Hư-Vân. Nơi các
chùa của Đại Lão Hoà-Thượng, ngoài Thiền Đường đều có một Niệm Phật
Đường. Ai tu Thiền, thì vào Thiền Đường tĩnh toạ; ai không khả năng tu
Thiền, thì vào Niệm Phật Đường niệm danh-hiệu A-Di-Đà Phật.

Nếu làm như vậy, chúng sanh Phật tử đều cám ơn chư vị. Đức Bổn-Sư Thích-Ca
và chư Phật mười phương đều muốn chúng sanh thời Mạt-pháp tu niệm Phật
để được Vãng Sanh Cực-Lạc .

Nếu chư vị Xuất-gia tu Thiền thực
hiện được điều này thì, chư Phật đều hoan hỷ vậy. Vì trong Kinh Niệm
Phật Ba-la-Mật, Đức Bổn-Sư nói: "Phật A-Di-Đà không hề bỏ sót một chúng
sanh nào, dù kẻ ấy phạm vào ngũ nghịch, thập ác v.v...."

Lời cầu xin chư Liên-hữu tại gia

Kính thưa chư vị,
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức
Phật dạy: "Pháp niệm Phật Vãng Sanh là môn tu duy-nhứt cho hết thảy mọi
người, vì rời môn tu này thì mọi người, mọi loài không thể giải -thóat;
nếu phế bỏ môn tu này thì chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào khác
để tế độ hết thảy hữu tình đúng như bản thệ, đúng như bản nguyện".

Đọc những hàng chữ trên đây, chúng ta thấy rõ, Đức Bổn-Sư và chư Phật mười
phương quá thương yêu chúng ta. Các Ngài đã nói rõ đây là pháp môn duy
nhứt để chúng ta tu giải-thoát .

Để đáp lại lòng thương yêu bao la của chư Phật, chúng tôi xin chư Liên-hữu hãy cố gắng tu học Kinh
Niệm Phật Ba-la-Mật. Chúng tôi có thể nói, tất cả Kinh Đại-Thừa đều vĩ
đại. Nhưng, vào thời Mạt-pháp này, Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật là kinh
duy-nhứt để chúng ta tu học, vì nó giúp chúng ta thiết thực giải thoát.

Nhiều vị sẽ nói:

- Tôi lớn tuổi rồi, không thể nào nhớ nổi!

Xin chư vị đừng ngại điều nầy. Trong một cuốn băng giảng của Hoà-Thượng
Tịnh-Không, mang tựa "Thành Phật chi Đạo", Hoà-Thượng thuật rằng, khi
Ngài giảng pháp tại Los Angeles có một Phật tử hỏi Hoà-Thượng:

-
Tôi có hai cuốn băng tên là Lục Tổ Đàn Kinh và Kinh Kim-Cang do Hoà
-Thượng giảng. Vậy tôi chỉ cần nghe hai băng này và niệm Phật cầu sanh
Tịnh-Độ có được không ?

Hoà-Thượng đáp:

- Được! Nhưng ông đã nghe bao nhiêu lần ?

Vị kia đáp:

- 26 lần!

Hoà-Thượng nói:

- Quá ít .

Vị kia hỏi:

- Vậy phải bao nhiêu lần ?

Hoà-Thượng đáp:

- 100 lần .

Vị kia về học 100 lần, sau đó gặp lại Hoà-Thượng, được Ngài dạy nên về
nghe 100 lần nữa. Theo Hoà-Thượng, hiện nay vị Phật tử kia có thể đi
giảng hai bộ kinh trên rất hay.

Đưa ra câu chuyện này, vì chúng tôi nhớ đến một lời Đức Phật dạy trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật:

"Người niệm Phật phải biết cảm mộ ân đức cao dày của Chánh-pháp, phải
luôn luôn báo đáp ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh đến Đại-Thừa, và
giảng nói cho kẻ khác, khuyên bảo mọi người quy y, bố thí, trí giới,
thiền định. Khiến sao cho Chánh -pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian,
ai nấy đều được hưởng dụng cam lồ vị".

Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật là một kinh điển Đại-Thừa. Nếu thật sự muốn Vãng Sanh Cực-Lạc,
chư vị nên bày tỏ lòng cảm mộ ân đức của Phật và Chánh-pháp cuối cùng
này, nghĩa là nên học hiểu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật .

Nếu như chư vị đã có Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trong tay mà chư vị không đọc
tụng, chính là chư vị đã phụ ơn Chánh-pháp rồi. Xin cố học theo lời dạy
của Hoà-Thượng Tịnh-Không, hãy đọc 100 lần hay 200 lần, rồi chư vị sẽ
thấy cái hay của Kinh. Rồi chư vị sẽ thực hành đúng lời Đức Phật dạy là
giảng nói cho người khác nghe. Không phải chư vị giảng trước đám đông
như chư Tăng Ni, mà gặp người nào giảng cho người này nghe và khuyên bảo
họ quy y.

Chư vị nào đã đọc sách Lưu-Xá-Lợi của chúng tôi hẳn
thấy có Lá Thư Xanh. Ngụ ý chúng tôi là muốn gây một phong trào giảng
dạy Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật . Đây là thể theo ý của Phật dạy ở trong
kinh. Nếu chúng ta đã có kinh trong tay, mà không giảng dạy cho mọi
người là cô phụ Phật .

Chẳng phải chúng ta chỉ giảng giữa Phật
tử với nhau, mà còn tìm cách giảng cho người ngoài đạo Phật. Vì kinh nói
rõ: "Khuyên bảo mọi người quy y". Bởi nếu là Phật tử với nhau, thì họ
đã quy y rồi, khuyên bảo là thừa .

Vậy ý Đức Phật là muốn chúng ta mở rộng sự giảng dạy này. Cho nên, trong kinh có đoạn Đức Phật nói:

"Không riêng vì bản thân mà Xuất ly Ta bà loạn trược, khổ não. Trái lại, phải
nguyện vì hết thảy chúng sanh khắp ba cõi sáu đường mà cầu Vãng Sanh
Cực-Lạc, chóng thành tựu Phật đạo để tế độ quần mê".

Đức Bổn-Sư dạy rõ ràng: "phải nguyện vì hết chúng sanh khắp ba cõi sáu đường". Đức
Phật dạy chúng ta, nếu muốn thật sự Vãng Sanh, phải nguyện vì tất cả
chúng sanh đang ở trong Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh, cả những chúng sanh
ở cõi Người, A-Tu-La và Trời cũng hồi hướng công đức cho họ được Vãng
Sanh khỏi Tam-giới .

Cho nên, chúng tôi thường nhắc nhở, khuyên chư vị nên hồi hướng công-đức .

Đức Phật nói rõ thêm trong kinh:

"Người Niệm Phật nếu đem cái tâm thái hời hợt, hẹp hòi, yếu hèn, chỉ riêng vì
giải-thoát bản thân, thì chẳng bao lâu sẽ chiêu cảm cái quả báo nhỏ bé,
nông cạn, tầm thường, không xứng với bản hoài của chư Phật, chẳng tương
ưng cùng bản-nguyện vĩ đại Bi Trí Viên Mãn của Phật A-Di-Đà. Cho nên khó
được tiếp dẫn về nơi cõi nước Tây-Phương".

Đây là lời kinh, Phật dạy chúng ta. Nếu chúng ta xét lại, thấy rõ từ lâu nay chúng ta tu
học Phật đều với tâm thái hời hợt, hẹp hòi, ích kỷ, chỉ lo tu giải
-thoát bản thân mình .

Nếu bây giờ chúng ta hiểu kinh, tất cả
đều đọc Kinh theo lời Phật dạy, áp dụng theo phương-pháp của Hoà-Thượng
Tịnh-Không, một thời gian sau chúng ta sẽ có thể giảng nói cho mọi người
nghe.

Đây là chúng ta thực hành đúng lời Phật dạy:

"Sao cho Chánh-pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian khiến ai nấy đều được hưởng dụng Cam lồ vị".

Vì nếu, Chánh -pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian, thì Phật-pháp sẽ
được trường tồn lâu dài. Đây là chúng ta thật sự thương Phật, và thật sự
đền ơn đức cao dày của chư Phật. Nếu người tu, chỉ biết lo cất chùa cho
lớn, dựng tượng Phật cho vĩ đại. Kêu gọi Phật tử cúng dường không ngừng
mà chẳng lo việc in kinh ấn tống, chẳng lo giảng Chánh-pháp Kinh Niệm
Phật Ba-La-Mật, vì đây là Chánh-pháp cuối cùng Phật dạy, tức là cô phụ
Phật vậy.

Xin trở lại vấn đề, làm cách nào học Phật pháp dễ nhớ
? Chúng tôi xin trao chư vị một kinh-nghiệm. Trước kia, khi mới học
Phật pháp, chúng tôi có ngay một quan-niệm:

"Nếu chúng ta muốn giải-thoát khỏi luân hồi khổ ải này, thì ta phải tự trả một cái giá
tương xứng. Chư vị hẳn có người từng về thăm quê-hương Việt-Nam. Muốn đi
được, phải chi-phí vé máy bay. Bây giờ chúng ta muốn về cõi Cực-Lạc của
Đức Từ Phụ A-Di-Đà. Chúng ta cũng nên trả một cái giá tương xứng nào
chớ, phải không ?

Trước tiên, chúng ta nên nghiên cứu tìm hiểu,
chúng ta niệm Phật như thế nào, để chắc được Vãng Sanh ? Thứ đến, để
học nhớ Phật pháp, nên có các phương-tiện. Hồi đó, chúng tôi cố công tìm
mua một máy cassette có hai băng và loại máy "auto reverse". Một bên
hát, một bên thâu và có thể hát suốt ngày lẫn đêm.

Như Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật có 7 phẩm. Chúng tôi đọc một đoạn của một phẩm ở một
băng, xong rồi tiếp-tục thâu đoạn ấy nhiều lần đầy khắp hai mặt băng.
Rồi chúng tôi nghe băng ấy rất nhiều ngày. Đêm ngủ chúng tôi cũng nghe.
Trong tiềm thức chúng tôi chứa đầy lời kinh trong một đoạn thâu. Có
nhiều chỗ, chúng tôi thật sự không hiểu . Nhưng một đêm, khi đang ngủ
bỗng nhiên chúng tôi nghe một đoạn khinh và ngộ ngay. Sau khi hiểu và
nhớ rõ phẩm kinh đó, chúng tôi lại đọc và thâu tiếp phẩm thứ hai. Nếu
chư vị ạp dụng cách này, chắc chắn sẽ hữu hiệu. Tuy-nhiên, chư vị đều có
thể áp dụng cách của Hoà-Thượng Tịnh-Không hay cách nào khác, miễn sao
có kết quả .

Tóm lại, nếu chúng ta thật sự muốn được Vãng Sanh, chúng ta nên cùng nhau học Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, theo đúng lời Kinh dạy .

Chúng tôi hiểu, có nhiều người tự cho mình đầy bụng Phật pháp, có trong tay
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, chẳng thèm đọc kỹ, chẳng nghiên-cứu; nhưng lại
tự hào mình là Thích tử của Phật, là con Phật mang dòng họ Thích. Đang ở
trong Niết-Bàn, Đức Bổn-Sư hẳn buồn lắm.

Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu Ni Phật!

Trở lại đoạn kinh, Đức Bổn-Sư dạy: "Người niệm Phật phải đọc tụng kinh
điển, giảng nói cho người khác khuyên bảo mọi người quy-y, bố-thí,
trì-giới, Thiền-định ...."

Trên đây, chúng ta đã hiểu, tại sao phải giảng nói cho người khác, khuyên bảo mọi người quy-y. Theo chúng
tôi, từ lâu người trong đạo Phật chúng ta chưa làm tròn lời dạy của
Phật, chưa khuyên bảo mọi người quy-y.

Tại sao ?

Vì trong Phật giáo chia ra quá nhiều tông phái, không thống-nhứt để có được
một tối cao lãnh đạo, hầu hoạch định một kế-hoạch, một phương-thức
truyền pháp. Không phải Đức Phật muốn đạo Phật có đông đảo Phật tử, mà
muốn Giáo Pháp Niệm Phật của chư Phật được tất cả mọi người đồng hiểu và
tất cả đều tu niệm Phật để vượt thoát khỏi luân hồi khổ ải .

Suốt vô số kiếp, chư Phật tu Bồ-Tát hạnh, bố thí không tiếc thân mạng, cứu
cánh chỉ để dẫn dắt chúng sanh vượt thoát luân hồi, ra khỏi Tam-giới.

Học hiểu đến đây, chúng tôi mới dám nói:

"Người có tâm Đại-Thừa, là phải nghĩ cho tất-cả chúng sanh, nếu còn chấp tông
này, phái khác mà không lo độ khắp chúng sanh, thì vẫn là tâm Tiểu-Thừa,
như Đức Phật dạy, chỉ gặt hái được quả báo nhỏ bé".

Bây giờ, nói tiếp bố thí, trì giới và thiền định .

Bố thí đây, là bố-thí pháp, chứ chẳng phải cho thiên hạ tiền bạc. Niệm
Phật không ngừng nghỉ, là trì giới và thiền định, vì trong niệm Phật đã
có thiền và niệm Phật tâm không nghĩ ngợi, không phân biệt, thân không
hành động khác là giữ tròn các giới Phật dạy.

Quan trọng nhứt là Bố Thí Pháp .

Thuở xưa Đức Phật dám xả thân để học Phật pháp ở quỷ Dạ Xoa do Vua Trời
Đế-Thích giả dạng. Giờ đây Đức Phật muốn chúng ta đem Phật pháp bố thí
cho người khác . Vì vậy, mà trong Kinh A-Di-Đà, Đức Phật nói, người in
kinh, tạo tượng v.v...dùng những phước ấy hồi-hướng phát nguyện, lâm
chung sẽ Vãng Sanh Trung Phẩm ở bực bất thối, sau đó công-đức, trí huệ
người ấy sẽ như bực Thượng.

Nhơn đây, chúng tôi muốn trình bày một việc, khi viết sách "Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh?", chúng
tôi ao ước, sách được liên-danh ấn-tống với con số lớn. Những cuốn sách
trước của chúng tôi đã được phân phối đến tay chư Phật tử từ khắp
thế-giới đến tận trong nước . Mãi đến tháng 4 năm 2002 vừa rồi, chúng
tôi nhân được lá thư từ Đồng Tháp gởi qua muốn nhận được sách. Dưới đây
là một đoạn thư ấy:

Cao lảnh 28 - 3- 2002

Kính gởi cô Tâm Từ

Cô gởi cho con 20 quyển Niệm Phật Lưu-Xá-Lợi, 1 quyển Kinh Niệm Phật
Ba-la-Mật sưu giải, và 1 quyển sưu giải 48 Đại Nguyện của Đức Phật
A-Di-Đà ......

*Cao-Lãnh 28 tháng 3 năm 2002 là ngày gởi mới nhứt trong số rất nhiều thư gởi xin các loại sách .

Như
vậy nhu cầu trong nước đang cần rất nhiều. Chúng tôi nghĩ rằng, sách
"Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh?" sẽ được hoan hỷ đón nhận
nhiều. Với con số liên-danh ấn-tống hiện nay, chúng tôi chắc chắn sẽ
không đủ trao đến tay những ai muốn có. Vì vậy, chúng tôi đã yêu cầu nhà
in 5 Star Printing không giới hạn số lượng in nhiều hay ít . Bất cứ lúc
nào chư Liên-hữu còn tiếp tục hổ trợ việc liên-danh ấn -tống chúng tôi
lại tiếp tục in thêm và cung-cấp theo nhu cầu, dù là một hay hai năm sau
nữa .

Cô Tâm Từ đã hứa với chúng tôi, ngày nào chư Liên-hữu
còn hùn phước ấn-tống các kinh sách của chúng tôi, thì cô còn ra công lo
lắng mọi việc.

Riêng phần chúng tôi, như đã tuyên bố, sẽ đóng
cửa tạ khách lo việc tu hành niệm Phật . Tuy-nhiên, bất cứ lúc nào cô
Tâm Từ điện thoại cho biết về việc in thêm sách và gói gởi sách, chúng
tôi sẽ sắp xếp để chu toàn. Xin chư Liên-hữu lưu ý cho điều này.

Thời Biểu Niệm Phật trong vòng hai năm của Tịnh-Hải

Trong các chương trước, chúng tôi đã trình bày phương cách niệm Phật của các
vị Tổ Tịnh-Độ Tông. Chư vị có thể chọn một cách nào thích nghi với hoàn
cảnh cá-nhân của mình. Phần cuối cùng này, chúng tôi trình bày thời biểu
trì chú và niệm Phật của chính chúng tôi. Tuy nhiên, vị nào cảm thấy
thích-hợp có thể áp dụng cho mình.

Thời biểu được chia làm ba thời như sau:

Sáng - Trưa và Tối (đều giống nhau)

- Hương nhang lễ Phât

-Phát nguyện Vãng Sanh

-Trì chú Thủ -Lăng-Nghiêm (7 biến)

-Trì chú Vô-Lượng-Thọ Như-Lai Chơn Ngôn (14 phút 21 biến)

-Niệm Phật 2 giờ (2160 niệm)

-Hồi hướng Công-đức và Tự Quy-y.

Về chữ thời, lúc Phật hiện tiền một thời là 4 giờ. Ở Trung-Hoa, mỗi thời
là 2 giờ. Ở đây chúng tôi chia ra làm 3 lần công phu trì chú, niệm Phật,
và dùng chữ thời cho dễ gọi . Mỗi thời của chúng tôi độ 2 giờ 30 phút.
Như vậy, một ngày 3 thời, chúng tôi trì 21 biến Thủ-Lăng-Nghiêm Thần
Chú, 21 biến Vô-Lượng-Thọ Như-Lai Chơn-Ngôn và 6500 danh-hiệu A-Di-Đà
Phật. Ngoài 6500 lần xưng niệm danh-hiệu Phật được ấn định không lui
sụt. Chúng tôi dành 10 tiếng đồng hồ cho việc ăn ngủ, nghỉ; trong 6 giờ
30 còn lại chúng tôi vẫn niệm Phật khi đi bộ, tập thể dục, tưới cây, đọc
kinh sách với khoảng 3500 niệm (có thể nhiều hơn).

Chư Liên-hữu khắp nơi cần hỏi han điều gì có thể gọi chúng tôi theo giờ
California, từ 5 giờ đến 6 giờ chiều, một tiếng đồng hồ tiếp xúc với bên
ngoài.

Tại sao phải trì chú Vô-Lượng-Thọ Như-Lai ?

Trong toàn bộ sách này chúng tôi có khuynh hướng tán thành ý kiến
của các vị Tổ Tịnh-Độ Tông và Hoà-Thượng Thích-Thiền-Tâm chỉ cần niệm
Phật, không cần kiêm nhiệm thêm pháp môn nào khác, nhưng tại sao ở đây
chúng tôi lại chủ-trương trì-chú Thủ-Lăng-Nghiêm và Vô-Lượng-Thọ Như-Lai
Chơn-Ngôn ?

Xin minh định cho được rõ ràng .

Căn bản của pháp môn Niệm phật, chúng tôi áp dụng Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, nơi phẩm Thứ Bảy, Phổ Hiền Bồ-Tát ban do
chúng sanh Thần-Chú Vãng Sanh và Bồ-Tát Quán-Thế-Âm ban Thần Chú
Vô-Lượng-Thọ Như-Lai. Chúng tôi chọn Vô-Lượng -Thọ Như-Lai Chơn-Ngô, vì
đây là Tạng Pháp bí mật của Đức Từ-Phụ A-Di-Đà, ẩn chứa vô biên thần lực
. Xuất-gia hay tại gia tụng 21 biến, lỡ phạm giới căn bản, hoặc các tội
thập ác và tất cả chướng ngại trên đường tu điều trừ sạch. Hiện đời an
lạc, thuận lợi.

Như vậy một ngày chúng tôi tụng 21 biến mỗi
loại, trong vòng 16 tháng chúng tôi trì tụng được 10.000 biến
Thủ-Lăng-Nghiêm và 10.000 biến Vô-Lượng-Thọ Như-Lai Chơn-Ngôn, như cư sĩ
Chúc-Lý tính. Ngoài ra không đọc tụng bất kỳ chú hay kinh gì khác.

Tại sao phải trì chú Thủ-Lăng-Nghiêm ?

Lý do có Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm là vì Ngài A-Nan bị nàng Ma-Đăng-Già
dùng Bà-La-Môn chú, suýt bị nguy hại, nên Đức Bổn-Sư phải dạy Thần chú
này.

Thần chú có 84.000 Đại Bồ-Tát đã đắc quả Phật, nhưng không
làm Phật, được gọi là Kim-Cương Tạng Vương Bồ-Tát ngày đêm theo hầu chú
này, Thần chú là mật lệnh của Phật. Thời Mạt pháp này trì chú tránh
được ma sự, oan gia trái chủ càng tránh xa.

Đực Bổn-Sư nói về công-hiệu Thần chú như sau:

Nếu sau khi tôi diệt-độ rồi; chúng sinh trong đời mạt-pháp, có người biết
tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng-chú nầy, nên biết những
chúng-sanh trì-tụng như vậy, lửa không đốt được, nước không đắm được,
độc lớn, độc nhỏ không thể hại được, cho đến các hàng thiên, long, quỷ,
thần, tinh, kỳ, ma, mị, có những thú dữ, đều không làm gì được. Tâm
người ấy được chính-thọ; tất-cả chú-trớ, yểm-cổ, thuốc-độc, kim-độc,
ngân-độc và độc-khí muôn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy
đều thành vị cam-lộ. Tất-cả ác-tinh với các quỷ-thần, lòng dữ hại người,
đới với người ấy, cũng không thể khởi ra ác-niệm; Tần-na, Dạ-ca và các
quỷ-vương dữ khác, cùng với quyến-thuộc, đều lãnh ơn sâu, thường gìn-giữ
ủng-hộ .

A-nan, nên biết chú nầy, thường có 84.000 na-do-tha
hằng-hà-sa câu-chỉ chủng-tộc Kim-Cương Tạng-Vương Bồ-Tát, mỗi mỗi đều có
những chúng Kim-cương làm quyến-thuộc, ngày đêm theo hầu. Giả-sử có
chúng-sanh, với tâm tán-loạn, chứ không phải Tam-ma-đề; tâm nhớ niệm-trì
chú nầy thì các Kim-Cương Vương đó, cũng thường theo bên thiện-nam-tử
kia, huống nữa, là những người có tâm Bồ-đề quyết-định; đối với những
người nầy, các vị Kim-Cương-Tạng-Vương Bồ-Tát đó, dùng tịnh-tâm thầm
tiếp-xúc, phát-huy thần-thức; người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được
84.000 hằng-hà-sa kiếp, rõ biết cùng khắp, được không nghi hoặc ....

Các chúng-sanh đó, dù cho chính mình không làm việc phúc, thập phương
Như-Lai có các công-đức đều cho họ hết, do đó, họ được trong những kiếp
hằng-hà-sa vô-số, không thể nói, không thể nói hết, thường cùng chư Phật
đồng sinh một chỗ; vô-lượng công-đức nhóm-lại như trái ác-xoa, đồng một
chỗ huân-tu, hằng không phân-tán . Vậy nên, có thể khiến người phá
giới, mà giới-căn cũng được thanh-tịnh; người chưa được giới, khiến cho
được giới; người chưa tinh-tiến, khiến cho tinh-tiến; người không
trí-tuệ, khiến được trí-tuệ; người không thanh-tịnh, mau được
thanh-tịnh; người không giữ trai-giới, tự thành có trai-giới . A-nan,
thiện-nam-tử ấy, khi trì-chú nầy, giả-sử có phạm cấm giới khi chưa trì
chú, thì sau khi trì-chú, các tội phá giới, không luận nặng nhẹ, một
thời, đều tiêu-diệt, dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các thứ không
sạch, tất-cả chư Phật, Bồ-Tát, Kim-cương, Thiên-tiên, Quỷ-thần không cho
là có lỗi; dù mặc-y-phục rách nát không sạch, thì một cái đi, một cái
đứng, thảy đồng như thanh-tịnh; dù không lập đàn, không vào đạo-tràng,
cũng không hành-đạo mà tụng-trì chú nầy, thì công-đức cũng như vào đàn,
hành-đạo, không có khác vậy; dù gây những tội nặng ngũ-nghịch, vô-gián
và phạm những tội tứ-khí, bát-khí của tỳ-khưu và tỳ-khưu-ni, thì khi
tụng-chú nầy rồi, cũng như gió mạnh thổi tan đống cát, những nghiệp nặng
như vậy, đều diệt-trừ hết, không còn chút mảy-may. A-nan, nếu có
chúng-sinh, từ vô-lượng vô-số kiếp đến nay, có tất-cả những tội-chướng
nhẹ, nặng mà trong các đời trước, chưa kịp sám-hối, nếu biết đọc, tụng,
viết, chép chú nầy, giữ đeo trên thân mình hay để nơi chỗ ở, như trang
trạch, viện, quán, thì những nghiệp chứa-nhóm từ trước như vậy, đều
tiêu-tan như nước sôi tiêu tuyết, chẳng bao lâu, đệu ngộ được
Vô-Sinh-Nhẫn .

Như chúng tôi nhiều lần trình bày. Ta bà này là
cõi do Ma-Vương thống -trị. vào thời mạt-pháp này. Ma-Vương càng lộng
hành hơn. Nhiều người đến lúc lâm chung thường bị oan hồn trái chủ đến
báo oán hay rủ rê theo làm quyến thuộc của ma.

Ngoài ra, như đã nói, chúng sanh chúng ta tội-chướng nặng nhẹ từ muôn kiếp đến nay, dù
mỗi ngày chúng ta niệm phật 30 ngàn niệm, trong 100 năm cũng không hết
ác-nghiệp .

Chỉ cí chú Thủ-Lăng-Nghiêm (cùng với Vô-Lượng Thọ
Như-Lai Chơn-Ngôn) và danh hiệu A-Di-Đà Phật mới giúp chúng ta tiêu-diệt
tội-chướng, dù tội nặng nhẹ từ các đời trước chưa kịp Sám-Hối, nếu biết
trì chú Thủ-Lăng-Nghiêm càng giúp trừ các nghiệp, chẳng bao lâu sẽ ngộ
Vô-Sanh Pháp-Nhẫn .

Đăc biệt, chúng sanh chúng ta từng ăn các
thứ rau cay như hành, hẹ, tỏi, riềng, nén, gọi là ngũ tân, đêm đêm bị ma
đến liếm môi mép, nên thiên tiên, Bồ-Tát đều xa lánh. Nhưng, nếu chúng
ta trì chú Thủ-Lăng-Nghiêm, Phật, Bồ-Tát, Kim-Cương, Thiên Tiên, Quỷ
Thần không cho là có lỗi .

Vì những điều trên, chúng tôi thấy
cần phải trù chú Thủ-Lăng-Nghiêm, chú Vô-Lượng-Thọ Như-Lai và niệm Phật
để chắc được Vãng Sanh.

Có Liên-Hữu ở Pensylvania vừa điện thoại hỏi chúng tôi, tại sao chú Thủ-Lăng-Nghiêm quá dài, mà chỉ trì-tụng có mấy câu đoạn sau cùng ?

rong bản văn kinh Thủ-Lăng-Nghiêm do Thượng-Toạ Thích-Phước-Hảo dịch, có đoạn ghi chú của Thiền-Sư Hám-Thị như sau:

-
"Thần chú gồm 427 câu. Các số câu trước chỉ là quy mạng chư Phật,
Bồ-Tát, chúng Hiền Thánh, v.v...và tỏ bày chú nguyện gia bị xa lìa các
nạn ác ma, bịnh tật, v.v...Đến câu 419 nói: 'Đát điệt tha' có nghĩa là
'Liền nói chú rằng'. Từ chữ Án tức câu thứ 420 đến 427 mới là thần chú".

Như vậy ta có thể tụng đọc từ câu thứ 420 và đọc tối thiểu là 7 biến:

Án

A na lệ

Tỳ xá đề

Bệ ra bạt xà ra đà rị

Bàn đà bàn đà nể

Bạt xà ra bàn ni phấn

Hổ hồng đô lô úng phấn

Ta bà ha

Hẹn tái ngộ chư Liên-hữu Theo như chư vị đã biết, khi sách này in xong và sau khi hoàn-tất việc gói, gởi sách, chúng tôi sẽ
đóng cửa tạ khách. Không có nghĩa là chúng tôi nhập thất. Mà chúng tôi
vẫn sanh hoạt bình thường hằng ngày, dành riêng một thời gian hai năm để
tu tập niệm Phật theo thời biểu nói trên. Chúng tôi nhất quyết học
thuộc lòng Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật và sách Sám Nguyện Vãng Sanh.

Sau hai năm, nếu sức khoẻ vẫn khang kiện, hiểu thêm được những gì hữu ích
cho Pháp môn Niệm Phật cầu Vãng Sanh Tây-Phương Cực-Lạc, chúng tôi sẽ
lại viết cống hiến chư vị .

Một lần nữa, xin tri ơn sự liên danh ấn -tống của chư vị.

Món Quà Phật Pháp

Như thường lệ, mỗi buổi sáng, sau khi chở sách đến bưu điện Santa Ana để gởi, bận về chúng tôi thường ghé lại nhà cô Tâm Từ .

Sáng nay, sau vài câu chuyện, Tâm Từ đưa tặng chúng tôi một cuốn băng
cassette. Chúng tôi liền hỏi: "Băng gì vậy ?" Tâm Từ đáp: "Chú về nghe
đi. Nghe xong chắc chú sẽ thích".

Từ lâu rồi, chúng tôi tập quen cái tánh, không thắc mắc; bất cứ chuyện gì không quan hệ đến mình
thì không tò mò hỏi han. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật đã dạy: "Tâm
vô quái ngại", nếu mình giữ cho được cái tâm thanh thản không thắc mắc,
thì lần lần tâm sẽ thanh-tịnh . Có lẻ Tâm-Từ dành cho chúng tôi một ngạc
nhiên về cuốn băng đưa tặng; vậy thì chúng tôi hỏi thêm để làm gì! Do
đó, chúng tôi lặng lẽ bỏ băng vào túi .

Khi về nhà, chúng tôi lấy băng ra nghe. Thì ra là cuốn băng truyện của nhà văn Phật tử, bút
danh Vĩnh-Hảo . Cuốn băng tựa là Đường Lên Núi Linh.

Cuốn băng này hẳn phải có gì đặc -biệt lắm nên đạo hữu Tâm-Từ mới muốn dành cho chúng tôi một ngạc-nhiên.

Thật sự, tác giả đã làm chúng tôi hào hứng bằng bài tựa mở đầu: "Đây không
phải là tuyển tập của những chuyện dài viết ngắn mà là những chuyện ngắn
viết dài ....Một vài điều viết ra trong tuyển tập có thể làm buồn lòng
một số người, vì đã nêu bật một cách phủ phàng những mặt trái của sự
thật, của thần tượng và những lý tưởng thời thượng".

Và tác giả kết luận:

"Tác phẩm tự nó không yêu cầu được thừa nhận, cũng không thách thức một sự phủ nhận nào ..."

Chúng tôi thích thú nằm nghe hết một cuốn băng dài 90 phút . Hình như tác-giả
khôg muốn được nghe khen hay chê. Vì số phận nó
Về Đầu Trang Go down
https://hoahaotanchau.forumvi.com
Sponsored content





Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )    Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )  Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh? (Cư Sĩ Tịnh Hải )
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Niệm phật cách nào chắc được vãng sanh
» Niệm Di Đà Không Xao Lãng, Chắc Chắn Được Vãng Sanh
» Niệm Phật chưa được nhứt tâm bất loạn, có được vãng sanh không?
» Niệm Phật Chưa Được Nhứt Tâm Bất Loạn Có Được Vãng Sanh Không?
» NẰM MỘNG KHÔNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC KHÓ VÃNG SANH

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ƯỚC MONG THẾ GIỚI LÂN HÒA HẢO,NHÀ PHẬT CON TIÊN HÉ MIỆNG CƯỜI :: HƯỚNG TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ-
Chuyển đến