Hòa Thượng pháp danh Hồng Mão, pháp tự Thiện Tâm, Tịnh Tâm, Giải Thần, pháp hiệu Hoàn Tâm, thế danh Trần Văn Mẹo. Ngài sinh năm Ất Mão (1914) tại làng Tân Quy, nay là xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.
Toàn thể gia đình Ngài đều quy y với Tổ Chí Thiềng chùa Phi Lai, Châu Đốc. Pháp danh Hồng Mão do Tổ đặt cho Ngài. Trong gia đình chẳng phải những một mình Ngài xuất gia, mà trước Ngài vài năm đã có người chị thứ bảy xuất gia, đó là cố Sư Bà Diệu Kim trụ trì chùa Bảo An, Cần Thơ.
Rồi sau đó vài năm, người em thứ chín cũng xuất gia, đó là cố Hòa Thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nhiệm kỳ 1966-1973. Kế đó, người anh thứ 5 cũng xả tục xuất gia, pháp danh Thiện Minh, sau trụ trì chùa Linh Quang ở Rạch Sung, Trà Ôn. Các vị này hiện nay đã viên tịch. Sau này có những người cháu gọi bằng chú như: T.T. Tịnh Thuận, Đ.Đ. Tịnh Nghiêm (đã viên tịch), Sư Cô Trí Mẫn ..., gọi Ngài bằng cậu như H.T. Hoàn Phú (Cố vấn trụ trì tổ đình Phước Hậu, Trà Ôn), Đ.Đ. Bửu Châu ... và gọi Ngài bằng ông chú như T.T. Phước Cẩn (trụ trì tổ đình Phước Hậu), Sư cô Minh Hạnh cũng lần lượt xuất gia. Có thể nói rằng đây là một gia đình có nhiều người xuất gia nhất ở vùng Trà Ôn, Cầu Kè.
Năm 16 tuổi, Ngài tập sự nhập hạ ở chùa Bạch Sa, Quy Nhơn. Năm sau, nhập hạ ở chùa Quang Lộc, Quảng Ngãi. Năm 18 tuổi, Ngài nhập hạ tại chùa Trùng Khánh, Phan Rang và được thọ giới Sa di tại đây.
Thời gian trôi qua đến năm 1939, Ngài được Hòa Thượng Khánh Anh cho phép về làm trụ trì chùa Phật Quang tại rạch Bang Chang, xã Thiện Mỹ, Trà Ôn.
Đến năm 1945, Ngài đã giúp đỡ hai vị Hòa Thượng Thiện Hoa và Trí Tịnh thành lập Phật học đường Phật Quang đào tạo Tăng tài để giữ vững ngôi nhà Phật pháp mai sau. Những vị xuất thân từ Phật học đường này, về bên Tăng có: H.T. Thích Trí Minh, H.T. Thích Bửu Huệ, T.T. Tịnh Đức (đều viên tịch); H.T Thanh Từ, H.T. Hoàn Quan, T.T. Phước Hảo, T.T. Tịnh Thuận v.v.... Về bên Ni có Ni Sư Trí Phát, Ni Sư Trí Hòa, Ni Sư Trí Nguyên, Ni Sư Trí Huyền (đều đã viên tịch); Ni sư Trí Thanh. Ni sư Trí Định, Ni sư Diệu Ngộ ....
Đến đầu năm 1953, Hòa Thượng Thiện Hoa thu xếp Phật học đường Phật Quang lên Sài Gòn để thống nhất và hợp tác với quý Hòa Thượng ở Phật học đường Nam Việt. Còn lại một mình Ngài nhưng với tinh thần “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, Ngài vẫn tiếp Tăng độ chúng, tận tâm chỉ dạy Kinh Luật cho họ.
Ngài thường khuyên chúng cố gắng nghiêm trì giới luật như trong Kinh Phạm Võng dạy: “Giới như đèn sáng lớn soi sáng đêm tối tăm, giới như gương báu sáng chiếu rõ tất cả pháp, giới như châu ma ni rưới của giúp kẻ nghèo, chỉ giới này hơn cả...”
Ngài cũng thường dạy tứ chúng bằng câu Phật ngôn trích trong Kinh Đại Tập: “Đời mạt pháp ức ức người tu hành khó có một người đắc đạo, chỉ có nương vào pháp môn niệm Phật mà được thoát sanh tử”; Ngài khuyên mọi người chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Với tự thân nghiêm trì giới luật, nên tất cả cử chỉ hàng ngày của Ngài đều phù hợp với luật nghi giới pháp, kết thành hương thơm giải thoát tỏa khắp trong giới Tăng Ni thời bấy giờ, đồng thời ảnh hưởng đến đàn hậu tấn một khi có đủ thiện duyên đến với Ngài.
Với chủ trương “Hãy bỏ tất cả để được tất cả” của đạo Phật. Ngài luôn luôn sống một cuộc sống đơn sơ đạm bạc bằng nguyên tắc “tam thường bất túc”.
Với hoài bão “truyền đăng tục diệm” Ngài đã thế độ cho rất nhiều người có chí ly dục xuất gia, quyết tâm từ bỏ cuộc đời giả tạm, vào chốn thiền môn tầm đạo. Vì ân đức Ngài quá sáng chói, phước trí Ngài quá trang nghiêm nên hầu hết Tăng Ni và Phật tử đều quy hướng về Ngài như những vì sao tinh tú đều hội tụ về ngôi sao Bắc Đẩu.
Tuổi đời một ngày một cao, sức khỏe mỗi ngày một kém, Ngài ẩn tu tại chùa Phật Quang và xem nơi này là trạm dừng chân cuối cùng trên bước đường hành đạo.
Ngài nhận thấy thân mình như chiếc xe cũ kỹm sắp hư hoại nên đã nổ lực vận dụng tất cả năng lực còn lại của những ngày xế bóng để tinh tấn hầu tạo cho mình một hành trang, một nhân địa giải thoát là vãng sanh về thế giới Cực Lạc, đúng như chí nguyện trong suốt cuộc đời tu hành của Ngài.
Những tưởng cõi đời uế trược này, Ngài còn thác chất lâu hơn nữa để tiếp tục hóa duyên, làm đồng hương cho Phật Pháp trong thời mạt vận và làm ánh sáng soi đường cho đàn hậu tấn noi theo. Nào ngờ đâu chỉ sau một cơn bệnh, mặc dù đã được các y bác sĩ ở bệnh viện Đa Khoa Cần Thơ tận tình săn sóc cứu chữa nhưng sức khỏe của Ngài vẫn không khả quan.
Ngài đã vãng sanh vào lúc 18 giờ ngày 22 tháng 6 năm 1991, nhằm ngày 11 tháng 5 năm Tân Mùi, tại chùa Báo Ân, Cần Thơ. Trụ thế 77 năm, hạ lạp 55 hạ.
Kim quan của Ngài được tôn trí tại chùa Báo Ân, Cần Thơ giữa những tiếng tụng kinh cầu nguyện của chư Tăng Ni và Phật tử các tự viện gần xa trong suốt mấy ngày đêm để tỏ lòng tôn kính một bậc Cao Tăng thạc đức đã vĩnh viễn ra đi. Thật là:
“Mây trắng che mời trăng Bát Nhã
Hoa đàm rơi phủ cả lối về”
Tuy nhục thân Ngài có tiêu tan với cát bụi thời gian, nhưng thanh danh đạo đức của Ngài mãi mãi sáng chói ở thế gian này. Ngài đã để lại một số xá lợi. Với niềm thương tiếc vô biên, hàng môn nhơn pháp quyến của Ngài thành kính ghi lại nơi đây đôi dòng tiểu sử của đời Ngài để nói lên công hạnh và sự nghiệp hoằng hóa độ sanh trong hơn 70 năm thác tích ở cõi Ta Bà này. Đồng thời làm tấm gương sáng chói cho đàn hậu tấn trên bước tiến tu giải thoát và phụng sự chúng sanh của người con Phật trong thời kỳ pháp nhược ma cường.
Lời Tịnh Hải:
Bài trên đây chúng tôi chỉ trích theo Tập Kỷ yếu. Tuy nhiên, ghi nhận, H.T Thích Thiện Hoa tuy có công lao đối với Phật pháp và chúng sanh Việt Nam, nhưng vì suốt đời bận rộn với Phật sự nên không có nhiều thời gian hành trì.
Hòa Thượng Thích Hoàn Tâm có 55 hạ lạp, Ngài giữ đúng giới pháp và hành trì theo pháp môn niệm Phật nên cứu độ rất nhiều chúng sanh.
Nhờ phước đức của bà cụ thân mẫu Ngài, cả dòng họ lần lượt xuất gia, tu hành đúng pháp. Bà cụ Thân mẫu Ngài nhờ không bận rộn thế sự và Phật sự nên Bà niệm Phật thấy Phật vãng sanh. Có lẽ nhờ tấm gương này mà ngoài 6 anh chị em của Hòa Thượng đều xuất gia. Các cháu trong dòng họ có thêm 7 người cũng xuất gia. Và vị nào lâm chung cũng vãng sanh và lưu lại nhiều Xá lợi.
Tại Việt Nam, theo chúng tôi biết, còn có 2 gia đình và dòng họ có nhiều người xuất gia. Đó là gia đình của Sư Bà Thích nữ Giác Nhẫn (xin xem bài riêng) và gia đình dòng họ của Hòa Thượng Thích Đức Niệm.